Thứ Hai, 13 tháng 9, 2021

THIÊN HẠ TRỤC LỘC

                             CỐ SỰ TÂN LUẬN-THIÊN HẠ TRỤC LỘC

故事新論-, 天下逐鹿( bàn luận chuyện cũ- Thiên hạ đuổi bắt hươu)

CỐ SỰ TÂN LUẬN – THIÊN HẠ TRỤC LỘC

(Truyện ký lịch sử)

故事新論-天下逐鹿 (Bàn luận chuyện cũ-Thiên hạ đuổi bắt hươu)

 

Sắp đến ngày 19/8 và 2/9, có người hỏi Sử Dân Ký:

-        Cách mạng tháng Tám giống như cuộc cách mạng nhung, đúng không?. Sử dáp

-        Vâng, đúng là Cách mạng tháng Tám không đổ máu, nhưng chỉ là lúc khởi đầu đầu thôi, nó không được dàn xếp nhanh chóng như Cách mạng nhung Tiệp Khắc, mà kéo dài đến 30 năm và đổ không ít máu mới xong. Đúng hơn, nó giống hình ảnh của câu chuyện xưa chép trong Sử ký Tư Mã Thiên: Tần thất kì lộc, thiên hạ cộng trục chi 秦失其鹿, 天下共逐之 (Triều Tần mất con hươu, cả thiên hạ cùng đuổi theo bắt).

Đời sau thường dùng làm điển tích THIÊN HẠ TRỤC LỘC 天下逐鹿. Truyện chép:

“Trước lúc bị hành hình, Hàn Tín bi phẫn nói rằng:

-   Ta hối hận không nghe theo kế của Khoái Thông, để đến nỗi chết dưới tay đàn bà.

Lưu Bang sau khi nghe, lập tức hạ lệnh tróc nã Khoái Thông. Không ngờ Khoái Thông khẳng khái nói với Lưu Bang:

- Lúc đầu, khi pháp độ triều Tần bại hoại, chính quyền rệu rã, sáu nước Sơn Đông đại loạn, nhất thời chư hầu nổi dậy. Lúc đó giống như triều Tần mất đi con hươu, người trong thiên hạ đều đuổi theo bắt, kết quả là người nào có bản lĩnh cao cường, hành động nhanh chóng sẽ bắt được con hươu này. Thần lúc đó chỉ biết có Hàn Tín mà không biết bệ hạ, huống chi người muốn đoạt thiên hạ rất đông, chỉ là lực lượng không đủ mà thôi. Lẽ nào bệ hạ muốn giết hết họ?

Lưu Bang nghe qua, không nói lời nào liền thả Khoái Thông” (Sử kí – Hoài Âm Hầu liệt truyện 史记 - 淮阴侯列传).

Tại Việt nam, hươu đã nhấp nhổm sổng chuồng vào tháng 3/1945.

8/ 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Một ngày sau , tại Huế một người Nhật tên là Yokoyama tự xưng là đại sứ gặp Bảo Đại nói:

-        Tâu Hoàng thượng, đêm qua chúng tôi đã chấm dứt chủ quyền của Pháp ở đất nước này. Tôi được giao nhiệm vụ dâng nền Độc lập của Việt Nam lên cho Hoàng thượng

-        Của toàn lãnh thổ Việt Nam, thưa ngài Đại sứ? Vị Đại sứ lờ đi không trả lời mà nói tiếp:

-            Tâu Hoàng Thượng, giữa lúc mà Việt Nam đi vào con đường mới, Hoàng Thượng không có ý định lập một chính phủ gồm những người mới ?

Bảo Đại nhờ ngài Đại sứ Nhật cho người tìm Ngô Đình Diệm, vốn đang là một chính khách cơ hội bỏ Pháp thân Nhật để cử làm thủ tướng, nhưng không có trả lời. Bảo Đại đành theo gợi ý của Yokoyama, mời sử gia Trần Trọng Kim tuổi đã sáu mươi, không làm chính trị bao giờ, đang được người Nhật bảo kê cho sang Singapo lánh nạn truy lùng của Pháp, đưa về làm thủ tướng. Trần Trọng Kim nhận lời, ngày 27/4 lập một chính phủ với thành phần hầu hết là trí thức tây học, có tiếng tăm. Ngày 12/5 Bảo Đại trao cho Đại Sứ bản tuyên ngôn độc lập trong đó có câu kết cuối cùng viết  rằng “...Chính phủ nước Việt Nam đã đặt tin tưởng  vào sự thành tín của nước Nhật và đã có quyết định cộng tác với nước này....”

Một hôm vào cuối tháng năm, Tướng Tsushihasni, tư lệnh quân đội Nhật tại Đông Dương khi qua Huế, ngỏ ý muốn đến yết kiến Bảo Đại. Vị Hoàng Đế tiếp ông  cùng toàn thể bộ Tham mưu tại điện Thái Hòa  . Viên tướng nói:

   -   Tâu Hoảng thượng, nước Nhật đang đi đến một chỗ ngoặt về chiến tranh. Đây đã đến lúc mà nước Việt Nam chứng tỏ sự quan tâm đến sự thịnh vượng chung của khối Đại Đông Á, bằng cách đem toàn dân hợp tác với Thiên hòang của chúng tôi. Nước Việt Nam cần phải đứng sát chúng tôi, để chiến đấu do Nhật điều khiển. Xin  Hoàng đế ra lệnh tổng động viên toàn quốc. 

Tổng động viên cái gì bây giờ khi dân chúng chết đói hàng triệu, chính phủ Trần Trọng Kim   không có quân đội, không có Bộ quốc phòng!  Chính phủ của họ Trần gồm toàn các trí thức cao cấp , thức thời. Nhật sắp thua trận, chắc họ cũng biết rằng nếu chính phủ tồn tại thì sẽ bị Đồng Minh quy cho là đồng lõa với Nhật, sẽ bị coi là tội phạm chiến tranh. Một tuần trước khi Nhật đầu hàng ngày 15/8 thì toàn bộ Nội các Trần Trọng Kim đã từ chức vào ngày 7/5/1945. Vậy là chính phủ Trần Trọng Kim thực chất tự giải thể. Khoảng trống quyền lực mở toang, HƯƠU ĐÃ HOÀN TOÀN SỔNG CHUỒNG , THIÊN HẠ ĐUA NHAU ĐUỔI BẮT.

Quần hùng đủ mặt anh hào, thử điểm mặt những chủ chốt xem sao:

Việt Quốc, Việt Cách, Việt Minh, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Trần Trọng Kim, Bảo Đại, Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm… Thời 45-46 là khởi đầu thời “thiên hạ trục lộc”, đáng tiếc là 30 năm sau mới tóm gọn được hươu. Cũng giống như trong lịch sử hơn hai ngàn năm trước, những hào kiệt này đều từng là hoặc là tiền bối, hoặc là chiến hữu, bạn bè, hoặc giúp nhau lúc hoạn nạn, hoặc tôn trọng nhau và không ai giết hại ai cả, không như Lưu Bang giết Hạng Vũ, Bành Việt, Anh Bố, Hàn Tín… và các chiến hữu của mình.

Nguyễn Hải Thần (1879-1959) người Hà Đông là chí sĩ yêu nước từ thời theo Đông Du của Phan Bội Châu còn sót lại, đã từng tình nguyện ôm bom về ám sát Toàn Quyền Đông Dương. Ông đã học tại trường Chấn Vũ (Tokyo, Nhật Bản) cùng lớp với Tưởng Giới Thạch. Về Trung Quốc, Nguyễn Hải Thần vào Trường Võ bị Hoàng Phố và trở thành giảng viên môn chính trị tại trường này. Ông còn nổi tiếng với nghề thầy bói. Tháng 10 năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Nguyễn Hải Thần cùng với Nghiêm Kế Tổ, và chiến hữu sáng lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Cách. Cuối tháng 8/1945, Việt Cách về nước theo 200.000 quân Trung Hoa Dân quốc do các tướng Lư Hán, Tiêu Văn chỉ huy sang với danh nghĩa giải giới quân đội Nhật. Khi đó thì ở Việt Nam, Nhật đã đầu hàng Đồng minh (15/8). Chính phủ Trần Trọng Kim (do Nhật dựng lên) từ chức, tự giải thể trước đó rồi. Khâm sai Phan Kế Toại nhượng bộ. Hồ Chí Minh về Hà Nội lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 28-8 và ra mắt ngày 2-9-45 tuyên bố nước Việt Nam thống nhất (ba kỳ), thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính phủ gồm đa số là Việt Minh.

Trong tuyên ngôn độc lập Hồ chí Minh đã mở đầu bằng trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập cuả Mỹ cùng Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, và khôn khéo khẳng định rằng “ Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị, dân ta đã đánh đổ các xiềng xích của chế độ thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa. “ 

Hồ Chí Minh là tên lúc đó còn rất lạ lẫm với toàn dân Việt Nam. Thực ra đó là tên gọi mới của một con người nổi tiếng- Nguyễn Ái Quốc. Ông Nguyễn không theo con đường thất bại của hai cụ Phan mà đi tìm con đường khác sang Âu Mỹ Nga học hỏi, về Trung Hoa gây dựng tổ chức, rồi về Cao Bằng lập ra Việt Minh (gọi tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội – chỉ thay chữ “cách mệnh” của Việt Cách bằng chữ “độc lập”) năm 1941 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Năm 1944, Việt Minh đã tổ chức quân đội ở Cao Bằng gọi là Việt Nam (Tuyên Truyền) Giải phóng quân.

Việt Cách đã giúp Việt Minh khi hoạn nạn lúc còn trứng nước: Tướng Trương Phát Khuê (lãnh tụ Trung Hoa Quốc dân đảng ở Lưỡng Quảng) bắt cầm tù Hồ Chí Minh khi ông sang Trung Quốc (1942-1943). Hồ Chí Minh chỉ được tha nhờ lời xin đặc xá của ông Nguyễn Hải Thần, vốn quen thân với tướng Trương.

Vũ Hồng Khanh (1898-1993), quê ở Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, xuất thân giáo làng, là một trong những yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng. Khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại, ông trốn sang Trung Quốc tiếp tục hoạt động chống Pháp. Ông liên kết với Nguyễn Hải Thần lập ra tại Liễu Châu năm 1942 Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách). Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh (Trung Quốc), bộ phận Việt Nam Quốc dân Đảng của Vũ Hồng Khanh liên minh với Đại Việt Quốc dân đảng (Trương Tử Anh) và Đại Việt Dân Chính đảng (Nguyễn Tường Tam) thành một tổ chức mới, là Đại Việt Quốc dân đảng. Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.

Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này. Đó là Việt Quốc.

Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946. Hiệp định này cho Pháp vào nhưng đẩy được Tưởng về nước.

Nguyễn Hải Thần thì chống Việt Minh quá quắt khiến Tiêu Văn chỉ huy quân Quốc dân đảng Trung Hoa phải giảng hoà ép Hải Thần phải hợp tác. Ngày 23/11/1945, tướng Tiêu Văn tổ chức một cuộc họp hòa giải các bên để thành lập chính phủ liên hiệp.

Cuối cùng các bên đạt được một thỏa thuận được tuyên bố là mang tính pháp lý (viết bằng chữ Hán) theo đó các ghế bộ trưởng trong chính phủ sẽ phân chia như sau: Việt Minh 2 bộ trưởng, Đảng Dân chủ Việt Nam (cũng tham gia Việt Minh) 2 bộ trưởng, Việt Quốc 2 bộ trưởng, Việt Cách 2 bộ trưởng, phi đảng phái 2 bộ trưởng. Thỏa thuận này không sử dụng tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vì Việt Quốc không đồng ý với tên này. Cuộc bầu cử quốc hội được hoãn 2 tuần. Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần chấp nhận để Hồ Chí Minh tiếp tục làm Chủ tịch nước lâm thời. Quốc hội sẽ quyết định quốc kỳ và quốc huy.

Trong thư ngày 6/12 sau đó gửi cho Nguyễn Hải Thần và Vũ Hông Khanh, Hồ Chí Minh có viết : “Tôi xin kính chúc các ông mạnh giỏi và tôi xin đề nghị ra mấy ý kiến như dưới đây:

Chúng ta, ai nấy đều vì quốc gia dân tộc, chớ không phải vì lợi ích cá nhân. Như vậy, bất luận thế nào, chúng ta cũng phải đoàn kết[...]

Chúng ta, người cách mệnh đều quyết hy sinh cá nhân tư ý, mà tôn trọng công ý của nhân dân và đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích của các đảng phái, thế thì, quyết không cho chúng ta được lầm và làm lung lay tiền đồ của quốc gia.

Còn ba tuần lễ nữa, sẽ có cuộc toàn quốc tổng tuyển cử, quốc dân sẽ kén chọn những người có nǎng lực, có đạo đức ra gánh vác công việc to tát của quốc gia[...]

Chỉ trong mấy tuần lễ nữa, Quốc hội sẽ tuyển ra một Chính phủ mới...Vì lý do trên, chúng tôi đề nghị:

Xin mời các đồng chí Quốc dân đảng tham gia việc Tổng tuyển cử ở các nơi[...]

Các ông ấy được hoàn toàn tự do hoạt động ứng cử cũng như các đảng phái khác. Chúng tôi xin phụ trách bảo vệ và giúp đỡ các ông ấy.

Từ ngày nay cho đến ngày Quốc hội khai mạc, hai bên phải tôn thủ bản điều kiện đã cùng nhau ký tại ngày 24 tháng 11, tức là “không công kích nhau bằng lời nói và hành động”.

Chúng tôi tưởng rằng như thế là rất quang minh, chính đại và cũng rất dân chủ, và từ đây sẽ đưa dẫn chúng ta đến nơi đoàn kết thân mật trước mặt quốc dân.”[...].

Sự thật thì hai đảng này không có khả năng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại địa phương. Vì vậy đã được đặc cách  Việt Quốc được 50 ghế còn Việt Cách 20 ghế trong Quốc hội mà không phải tranh cử. Hai đảng này cũng không được tham gia vào cơ quan chỉ huy và tham mưu của quân đội.

Pháp ký với Tưởng Giới Thạch hiệp ước Trùng Khánh ngày 28/2 bán Việt Nam cho Pháp. Pháp kéo vào Bắc Việt Nam nhưng sáng 6/3/45 quân Tưởng ở Việt Nam không tuân lệnh Trùng Khánh và nổ súng vào tàu chiến Pháp tại Hải Phòng. Chiều 6/3 Hồ chí Minh (Việt Minh) cùng Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) ký với Sainteny Đại diện chính phủ Pháp tạm ước 6/3 trong đó có ghi công nhận Việt Nam là một nước tự do trong Liên Hiệp Pháp, có chính phủ, quân đội và ngoại giao riêng. Đổi lại Pháp được tạm đóng quân tại Việt Nam. Việt Quốc ra sức chống đối, gọi Hồ chí Minh là kẻ bán nước. Hồ Chí Minh phải tuyên bố:

-            Tôi, Hồ Chí Minh, đã cùng đồng bào chiến đấu cho Tổ quốc. Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước.

Ngày 15/6 đơn vị cuối cùng của quân Tưởng rút khỏi Việt Nam. Thế là rũ được cái nạn Tàu. Chỉ còn lại Pháp trên đất Việt Nam.

Hồ Chí Minh sang Pháp từ đầu tháng 6 đến tháng 10/1946 theo lời mời của chính phủ Pháp với tư cách nguyên thủ quốc gia. Ở nhà các phe phái đánh nhau dữ dội kể cả bằng súng đạn, không ai chịu ai, đỉnh điểm là vụ nhà số 7 phố Ôn Như Hầu ngày 12/7/1946. Quân Tàu Tưởng đã rút hết không còn chỗ dựa nữa, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam… bỏ nước trốn sang Trung Quốc.

Hồ Chí Minh từ Pháp trở về, ngày 31/10/46 bị Quốc hội chất vấn về chuyện này, Hồ Chí Minh trả lời: “Về ông Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần, ông nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Tường Tam và ông nguyên Phó Chủ tịch Quân ủy hội Vũ Hồng Khanh. Các ông ấy bây giờ không có mặt ở đây. Lúc nước nhà đang gặp bước khó khăn, quốc dân tin ở người nào mới trao cho người ấy công việc lớn. Thế mà các ông ấy lại bỏ đi thì các ông ấy phải tự hỏi lương tâm thế nào. Trả lời thế là đủ. Những người bỏ việc đi kia, họ không muốn gánh việc nước nhà hoặc họ cũng không đủ sức mà gánh nổi. Nay chúng ta không có họ ở đây, chúng ta cũng cứ gánh được như thường. Nhưng nếu các anh em ấy biết nghĩ lại mà trở về thì chúng ta cũng hoan nghênh”.

Hải Thần ở Hongkong, không tham chính nữa, lấy vợ trẻ mới , khi hỏi chuyện xưa thì ông ta lầu bầu nửa Quảng nửa Việt một câu chửi thề “tỉu nei ma (屌你妈) cái tồng bào” , và chết tại đó năm 1959 thọ 80 tuổi.

Bảo Đại ngày 18/3 với tư cách Cố vấn Tối cao cầm đầu phái đoàn chính phủ VNDCCH sang Trùng Khánh thì ở lại không về.

Còn nhớ thời đầu kháng chiến có câu hò rất phổ biến: “Ai ngu như Bảo Đại/Ai dại như Nguyễn Hải Thần/ Mưu đem dân ta vào vòng nô lệ một lần thứ hai”. Và quả thật năm 1949 Bảo Đại quay về Việt Nam theo quân Pháp dưới danh nghĩa Quốc Gia Việt Nam chống lại kháng chiến.

Nguyễn Tường Tam lúc bỏ trốn là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Năm 1951 Tam về lại Việt Nam và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Thế nhưng năm 1960 ông thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, trước khi bị chính phủ Ngô Đình Diệm đem ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc tự tử đêm 8/7/1963 lúc đó Tam 57 tuổi.

Vũ Hồng Khanh sang Trung Quốc theo Quốc dân đảng Trung Hoa chiêu binh mãi mã. Năm 1949 Mao thắng Tưởng, dồn tàn quân Quốc dân đảng chạy về biên giới Việt Nam. Vũ Hồng Khanh cầm đầu chừng bảy đến tám ngàn tàn quân Quốc dân đảng tiến vào Việt Nam qua ngả Na Sầm, giữa Lạng Sơn và Cao Bằng. Khi quân trú phòng Pháp định tước vũ khí đoàn quân này, đụng độ nổ ra. Bị cả quân Pháp và Việt Minh vây đánh, mất chừng hai nghìn người, ngày 6 tháng 1 năm 1950, Vũ Hồng Khanh và số tàn quân còn lại hạ vũ khí đầu hàng quân Pháp. Khanh về cộng tác với Pháp, Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sau sự kiện năm 1975, Vũ Hồng Khanh theo lệnh chính quyền Cách mạng đi tập trung học tập cải tạo, dù ông đã 77 tuổi.

Năm 1986 ông được trả tự do và về sống tại quê nhà Vĩnh Tường và mất ở đó vào 1993 thọ 95 tuổi. Một tài liệu khác nói rằng đích thân Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn đã vào trại cải tạo đề nghị thả sớm Vũ Hồng Khanh vì năm 1943 ông cùng Nguyễn Hải Thần  có công can thiệp với tướng Trung Hoa Quốc dân Đảng Trương Phát Khuê thả Lý Thụy – bí danh của Hồ Chí Minh – tại Liễu Châu, Trung Quốc.

Nhân vật cuối cùng trong số quần hùng từ giã cõi đời là Bảo Đại, ông chết ở Paris năm 1997. Trong cuộc  phỏng vấn báo chí cuối cùng 1997 trước khi mất, nhà báo Frédéric Mitterand  hỏi:

-          Đối với ngài, cụ Hồ cũng là một nhà ái quốc?

Bảo Đại đã trả lời ngay:

-          Đối với tôi, còn hơn thế nữa, đó là một người có tinh thần quốc gia. Cụ là một người yêu nước.

Một nhân vật cũng khá lý thú, tuy không phải là một quần hùng trục lộc vào thời 45-46 là Ngô Đình Diệm. Y là người trí lự, mưu sâu kế hiểm, tuy rất nổi tiếng từ trẻ, nhưng vẫn nhẫn nhục chờ thời.  Vào cuối năm 1945, Ngô Đình Diệm bị dân quân bắt ở Nam Trung Bộ, giải ra Hà Nội. Biết việc này, với tư cách Chủ tịch Chính phủ, ngày 15/1/1946, Hồ Chí Minh yêu cầu cho đưa Ngô Đình Diệm đến gặp tại Bắc Bộ phủ, thuyết phục ông Diệm đi với nhân dân, tham gia vào việc nước. Diệm trả lời:
       -   Tôi sẽ vẫn tiếp tục chống Pháp nhưng không thể đi với Việt Minh.

Hồ Chí Minh định thả Diệm. Tả hữu liền can gián:

-        Diệm là kẻ tinh khôn, tráo trở. Khi Pháp mạnh thì theo Pháp, khi Nhật sang thì bỏ Pháp theo  Nhật, con người này rất nguy hiểm , không nên thả.

Hồ Chí Minh đáp:

-            Nếu ông ta thân Nhật thì Nhật đã tan tành rồi, còn chỗ nào mà thân nữa. Còn ông ta nói vẫn còn chống Pháp, nhưng không đi với Việt Minh, thì cứ thả ông ra, để ông ấy chống Pháp theo kiểu của ông ấy!.

Thế là Hồ Chí Minh đã lệnh thả Ngô Đình Diệm. Về sau quả thật Diệm đã chống Pháp, lật cả Bảo Đại để theo phò Hoa Kỳ chống lại Hồ Chí Minh và 17 năm sau bị chính Hoa Kỳ ra lệnh trừ khử

Sử Dân Ký bình luận rằng, giá mà lúc ấy Hồ Chí Minh không biết Ngô Đình Diệm bị bắt, thì Ngô Đình Diệm đã bỏ xác dưới tay dân quân Quảng Ngãi rồi. Lịch sử Việt Nam có thể sẽ đi con đường ngắn và đỡ đổ máu hơn. Nhưng cuối cùng thì Ngô Đình Diệm đã phải trả giá.Theo lệnh ông chủ Hoa Kỳ, vào 1963 ông Diệm bị đệ tử của chính mình giết, chứ không phải chết dưới tay Việt Minh của ông Hồ. Liệu có nên quy cho Hồ Chí Minh cái tội đã quá nhân từ và quân tử để sau này chuốc lấy hậu hoạ 30 năm?

Tiếc thay lịch sử không có chữ nếu.

Cuối cùng sau 30 năm thì Việt Minh và hậu duệ đã bắt được hươu và giữ chặt cho đến khi nào… SỔNG CHUỒNG!

Chuyện “THIÊN HẠ TRỤC LỘC” tân bản đến đây là hết.

 

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét