Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

VÌ SAO 53 LÀ NĂM HẠN

http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&CategoryID=2&News=7174
11:38-24/01/2014 
Giải mã sự lập trình của tạo hóa (phần II)
Trần Xuân Hoài
NĂM HẠN , NĂM TUỔI LÀ GÌ ?

(Bạn cần đọc phần "LINH HỒN LÀ GÌ " trước khi đọc phần II)

Chúng ta đang nóng lòng chờ xem bao giờ loài người xây dựng được máy tính lượng tử khổng lồ để giải mã sự lập trình của tạo hóa. Nhưng chờ đến lúc đó thì lâu quá, còn bây giờ thì nhiều người đang lo lắng hỏi nhau những điều cụ thể, gần hơn, ví dụ như:

Tại sao 53 là hạn trung niên? 

61, 69  là tuổi đáng ngại cho người cao niên ?

Để giải bài toán (câu hỏi) này chúng ta thống nhất dựa trên những luận cứ khoa học cổ, kim đã được công nhận là đúng đắn sau đây:

Chân lý chỉ có thể tiệm cận. Mọi lời giải chỉ là gần đúng. Chúng ta ở đây tạm thời chỉ sử dụng phép gần đúng bậc một là phép gần đúng kém nhất. (theo Triết học và Khoa học hiện đại).

Con người là một thực thể của vũ trụ. Sự hình thành và phát triển của con người là do trạng thái của vũ trụ quyết định. (Như quan điểm của Chiêm tinh và Tử vi).

Trạng thái của vũ trụ khi một con người sinh ra là khởi điểm cho sự hình thành và từ đó mà biến đổi và phát triển lên (quan điểm của Kinh Dịch , CA và QCA). Trong quá trình phát triển, nếu có các trạng thái vũ trụ như nhau hoặc gần như nhau thì dạng phát triển ở lần sau là đồng dạng hoặc gần đồng dạng về bản chất với lần trước.


Trong phép gần đúng bậc 1 thì đối với con người trạng thái của Vũ trụ là vị trí đối với nhau của tâm Mặt trời, Mặt trăng và Trái đất. Quỹ đạo là phẳng. Bài toán là 2D (hai chiều, hình 2). Những tác động của các thiên thể, ngân hà, thiên hà khác là có nhưng ở phép gần đúng này thì bỏ qua
Mặt trời là có ảnh hưởng lớn nhất, vì vậy đơn vị tính thời gian là lấy năm Mặt trời, tức một vòng quay biểu kiến của quả đất quanh Mặt trời. Mặt trăng tuy nhỏ hơn nhiều sao khác nhưng gần Trái đất nhất, nên quỹ đạo Mặt trăng (tháng Mặt trăng) cũng là thông số chính yếu.

Năm số không gần đúng là 9 tháng trong bụng mẹ cộng 3 tháng sau khi chào đời. Đó chính là tuổi tiên thiên trời định. Những trạng thái của vũ trụ lặp lại của tuổi tiên thiên tạo nên sự biến dịch của người đó (dù xấu hay tốt) được xem là bình thường như tạo hóa đã ban tặng. Nói đơn giản đó là tuổi những thay đổi đã theo một khuôn mẫu như khi tạo hóa sinh ra, không biến đổi đột xuất.

Ngày nay với khoa học kỹ thuật hiện đại và máy tính khổng lồ, con người có thể đo đạc và tính toán chính xác đến từng giây, từng mét từng radian tọa độ vũ trụ của của Mặt trời, Mặt trăng và Trái đất. Nhưng chưa cần phải sử dụng đến độ chính xác này ở phép gần đúng thứ nhất. Chỉ cần dùng đến các quy luật thiên văn chính xác đến ngày Mặt trời (Solar day) hoặc ngày thiên văn (sidereal day) là đủ. Vị trí của Trái đất so với Mặt trời được đặc trưng bởi quỹ đạo Trái đất quanh Mặt trời, là năm Mặt trời. Một năm Mặt trời có 365,2425 ngày. Vị trí của Trái đất và Mặt trăng quay quanh Trái đất so với Mặt trời được xác định bởi quỹ đạo của Mặt trăng quanh Trái đất (có tính đến sự dịch chuyển của Trái đất quanh mặt trời), tức là tháng Mặt trăng. Một tháng Mặt trăng có 29,53059 ngày. Trạng thái  vũ trụ của một thời điểm, ví dụ tại điểm bắt đầu của năm hình thành nên con người (tuổi số không) được xác định bởi 3 điểm: Tâm Mặt trời (S) , Tâm Trái đất trên Hoàng đạo (E) và Tâm Mặt trăng trên quỹ đạo tháng (L). Hết một năm Mặt trời, Trái đất trở về điểm E còn Mặt trăng trở lại điểm nào đó, L’ chẳng hạn (Xem hình 2). 


Hình 2

Có hai khả năng xảy ra:

Điểm L’ khác L. Trạng thái vũ trụ của năm tiếp đó dĩ nhiên là khác với trạng thái năm số không, tất sẽ có những biến đổi và dịch chuyển mới, khác so với khi tạo hóa ban tặng cho ta lúc ra đời, cho nên  gọi là tuổi Biến dịch. 

Cũng có thể sau một (hay nhiều năm) điểm L’ trùng hoặc gần trùng với L, năm tiếp đó có trạng thái lặp lại của năm số không. Con người phát triển là đồng dạng, tức cùng một khuôn mẫu, với năm số không, như là tạo hóa đã ban cho, ta gọi là năm tuổi Bình yên 

Quan sát bầu trời, đo đạc ngày tháng, các nhà thiên văn đã khám phá ra:
Chu kỳ 19: 19 năm Mặt trời =235 tháng Mặt trăng, sai số chỉ 0.003. Nói một cách gần đúng dễ hiểu là trạng thái của bộ ba Mặt trăng-Trái đất-Mặt trời cứ 19 năm lặp lại như cũ. Chu kỳ này khá chính xác , hơn 4 trăm năm mới lệch một ngày, cho nên trong cõi trăm năm người đời có thể coi là trùng lặp tuyệt đối. (Vì lý do này mà trong lịch pháp , cứ 19 năm dương lịch thì trong 19 năm âm lịch phải có 7 năm gồm 13 tháng, tức là 7 năm nhuận). Chu kỳ này có tên là Chu kỳ Meton, đặt theo tên người Hy lạp đã khám phá ra (Meton of Athen ,năm 440 trước CN). Chu kỳ Meton  là do  hai tiểu chu kỳ (chu kỳ con) gần đúng cộng lại:

Tiểu Chu kỳ 8 (octaeteris):  8 năm Mặt trời = 99 tháng Mặt trăng, sai số 1,5 ngày, có nghĩa là cứ 5 năm thì lệch 1 ngày. Tiểu Chu kỳ này ta đặt tên là chu kỳ ÂM.

Tiểu chu kỳ 11: 11 năm Mặt trời =136 tháng Mặt trăng, sai số 1,5 ngày, tức là cứ 7,3 năm lêch 1 ngày. Ta đặt tên tiểu chu kỳ này là Chu kỳ DƯƠNG.

Vậy là con người sinh ra (năm số không) tiếp theo bảy năm biến dịch thì đến tuổi (hầu như)bình yên đầu tiên, 8 tuổi, cũng là hết một chu kỳ Âm. Hai năm Biến dịch nữa (9,10) sang năm 11 tuổi lại (hầu như) Bình yên, hết một chu kỳ Dương. Quan sát thống kê cho thấy rằng ở đứa trẻ gái, 8 tuổi là tuổi bắt đầu giới tính Nữ hình thành, cho nên tiểu chu kỳ 8 gọi là chu kỳ ÂM. Còn 11 tuổi là tuổi bé trai bắt đầu hình thành giới tính Nam, nên gọi là chu kỳ DƯƠNG. Giới tính của con người hoàn chỉnh ở chu kỳ thứ 2, Nữ là 16 tuổi (2x8) và Nam là 22 (2x11). Năm 19 tuổi là hoàn thành chu kỳ Meton = ÂM+DƯƠNG, là tuổi (tuyệt đối) Bình yên, âm dương hài hòa. Có thể  xác định Tuổi Bình yên (tính chất  chung cho các tuổi “hầu như” hoặc “tuyệt đối” Bình yên) của đời người theo công thức:

TUỔI BÌNH YÊN= A x 8 + D x 11, trong đó A và D là những số nguyên dương.

Những tuổi còn lại, không thể khai triển được như trên là tuổi Biến dịch (Hình 3)


Hình 3

Theo công thức đó mà tính, trong trăm năm đời người tuổi biến dịch tập trung nhiều ở tuổi trẻ và đến 69 là tuổi Biến dịch cuối cùng, còn Bình yên thì có đến 66 năm, đó là các tuổi: 8, 11, 16, 19, 22, 24, 27, 30, 32, 33, 35, 38, 40, 41, 43, 44, 46, 48, 49, 51, 52, 54, 55, 56, 57, 59, 60, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 70, 71, 72, 73,74, 75, 76,77, 78, 79, 80, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 87, 88, 88, 89, 90, 91, 92,93, 94, 95, 96, 97, 98, 99, 100…

Tuổi Bình yên phân thành tuổi Âm thịnh, tuổi Dương thịnh và tuổi Hài hòa (Hình 4): D-A >0: tuổi Dương thịnh; D-A < 0: tuổi ÂM thịnh;  D-A=0: tuổi Hài hòa

Trong các tuổi Biến dịch cũng có thể định lượng được sự Biến dịch bằng một số đo gọi là mức biến dị. Theo quy luật Vật lý, với cùng một mức độ thay đổi, nếu chuỗi biến dịch liên tục càng dài thì độ biến dị càng thấp, nếu có xảy ra ở một điểm thì sự biến dịch sau có thể tự sửa chữa. Vậy độ dài của chuỗi tuổi biến dịch liền nhau đặc trưng cho mức biến dị. Chuỗi càng ngắn thì mức biên dị càng lớn. Để dễ phân biệt, ta quy ước sử dụng các mức biến dị tương ứng với chiều dài chuỗi năm biến dịch như sau: Mức 1 là liên kết chuỗi lớn hơn 3 năm, khó xảy ra đột biến. Mức 2 là ứng với chuỗi 3 năm; mức 3 là chuỗi 2 năm và mức 4 là năm biến dị đơn độc, không có liên kết. Năm đơn độc này (23, 31, 34, 39, 42, 45, 47, 50, 53, 58, 61, 69) nói chung là dễ có những đột xuất đáng ngại của đời người, vì một khi có biến dị xảy ra thì không có chu trình kế tiếp để điều chỉnh mà phải chờ đến năm biến dịch gần nhất mới có cơ hội điều chỉnh.


Hình 4

Rõ ràng là mức độ đáng ngại của năm đơn độc càng tăng lên khi mà khoảng cách tính đến năm biến dị gần nhất (gọi là khoảng cô đơn) càng dài. Mức biến dị quy ước sẽ tăng thêm 1 nếu khoảng cô đơn là 2, và tăng thêm 1 giá trị nữa khi khoảng cô đơn lớn hơn 3 (Hình 5).


Hình 5

Dễ dàng thấy rõ các tuổi 53, 61 và 69 là có Mức Biến dị lớn nhất, đó là lý do vì sao những tuổi này là rất đáng quan ngại. Do mức biến dị lớn nên 53 là năm Hạn vì là năm có thay đổi đột biến mạnh nhất ở tuổi trung niên. Tuổi 61 và đặc biệt 69 là nguy hiểm cho người già, vì là tuổi cuối cùng của đời người có đột biến. Từ sau tuổi 69 là chuỗi tuổi bình yên liên tục, mọi thứ mà tạo hóa đã ban tặng sẽ suy giảm (già đi) đều đều theo khuôn mẫu trời định lúc chào đời mà không đột biến. Đến mốc 88 tuổi là đạt điểm đặc biệt, đó là điểm thuận ÂM (tổ hợp 11 chu kỳ Âm) hoặc thuần Dương (tổ hợp 8 chu kỳ Dương), giống như khi mầm sống nảy sinh, người già trở thành như con trẻ. Các mốc 76 và 95 cũng đáng chú ý, đó là điểm Âm-Dương hài hòa. Ở ba mốc dị thường này có thể rất tốt cũng có thể rất xấu.

Luận thuyết trình bày trên đây là dựa trên cơ sở tính toán khoa học, không mang chút nào tâm linh, huyền bí cả. Ít nhất nó đã được kiểm chứng bởi thực tế với 3 tuổi trong khoảng 53, 61, 69 (có tính đến sai số)  thì người ta nhận thấy có nhiều người từ trần, ốm đau, bệnh tật nhất. Các tiên đoán ở các tuổi Biến dị, Cô đơn, hoặc Bình yên khác có lẽ cần được kiểm chứng bằng các số liệu thống kê khoa học, xem có đúng không. Đây chỉ là những kết quả ở cấp  gần đúng thấp nhất. Khi nâng cao cấp gần đúng và độ phân giải, lưu ý cả không thời gian sinh ra của từng người, ta có thể dự đoán đến chi tiết hằng tháng, hằng ngày... của từng cá thể riêng biệt. Nhiều điều bất ngờ dự đoán quy luật tương lai từng người trên cơ sở khoa học đang được chờ đợi. 
Khi bài này được công bố trên Tia sáng (bản in giấy), vì khuôn khổ có hạn, nên người viết đã tự lược bớt đoạn dưới đậy:
Tuổi 53 là tuổi hạn thì có lẽ không ai thắc mắc , vì dân gian đã thống kê rõ là có khá nhiều người (đàn ông cũng như đàn bà ) vào tuổi này đã đột ngột đổ bệnh, thậm chí tử vong... Có một thí dụ rất thú vị : Khi nghiên cứu số tử vong vì bệnh ung thư vú theo tuổi tại ba tỉnh Bắc ninh, Lâm Đồng và Bến Tre, người ta đã lập được một biểu đồ dưới đây. Nhìn vào đây chắc không ại lại nghi ngờ trong khoảng tuổi quanh 61, số tử vong là cức đại.
 NGHIÊN CỨU TỬ VONG DO UNG THƯ VÚ  (Luận văn Bác sĩ của Trần Thị Hương)




Ai đó đã nói rằng, bí ẩn của tương lai chính là động lực huyền diệu của tình yêu cuộc sống. Nhưng nếu biết được hết tương lai rồi thì… còn gì hấp dẫn để sống tiếp nữa! Vậy mà tại sao con người cứ tìm cách giải đoán tương lai? 

Mời xem tiếp phần III: Luận về những tiên đoán những năm của tuổi già
-------------
Tài liệu tham khảo
1-Der Koran (Kinh Qu’ran), Wilhelm Heyne Verlag GmbH, Munchen 1992
2- Phan Bội Châu: Chu Dịch, NXB Văn Hóa Thông tin 1996
3-Stephen Wolfram, A new kind of Science: NKS | ON LINE, 2007
4-http://tiasang.com.vn/Default. aspx?tabid=111&News=1039&CategoryID=32
5-http://scienceworld.wolfram.com/astronomy/

1 nhận xét: