NÓI CHUYỆN SỐ MỆNH DƯỚI GÓC NHÌN KHOA
HỌC
Trần xuân Hoài
(BÀI ĐÃ ĐĂNG RÚT GỌN TRÊN "Tia Sáng" , số xuân Ất Mùi ra ngày 5/2/2015 ,trang 45-49)
Lại mở đầu một năm mới, cũng là
lúc thử luận bàn về khoa học và sự huyền bí tâm linh.
Trời đất vận chuyển tuần hoàn vĩnh viễn không sinh không diệt, chỉ có
cuộc sống hữu hạn của muôn loài là trôi theo một chiều từ sinh đến diệt mà thôi.
Phía trước luôn là bí ẩn và ai cũng muốn biết trước điều sẽ xẩy ra. Do đó dù
thuộc chủng tộc nào, thuộc nhóm đức tin nào, dù thuộc tầng lớp nào, dù trình độ
hiểu biết ra sao, muốn hay không, thì với con người việc tìm cách tiên tri hay
tiên đoán mà dân gian gọi là bói toán, là hoạt động đã tồn tại hàng ngàn năm
qua cho mãi đến nay, và có lẽ là một trong những môn cổ nhất lịch sử văn minh
nhân loại[1].
CÓ CHĂNG KHOA HỌC HUYỀN BÍ ?
Khi khoa học phát triển và có uy tín không thể
bàn cãi, người ta cũng gán cho bói toán cái danh khoa học, gọi là thuộc về khoa
học huyền bí.
Bất cứ ngành khoa học nào cũng
phải bắt đầu bằng những tiên đề (Axiom) . Đó là những chân lý tự thân đúng, không
cần và không thể chứng minh. Ví dụ ngành Vật lý thì thừa nhận Vật chất và năng
lượng là bảo toàn, không tự nhiên mất đi và không tự nhiên sinh ra. Mỗi học
thuyết (hay lý thuyết) cụ thể trong một ngành khoa học cũng phải xây dựng trên
những tiên đề riêng (còn gọi là định đề- postulate) là những chân lý không thể
chứng minh bằng chính lý thuyết đó[2].
Ví dụ, thuyết tương đối của Einstein trong vật lý coi tốc độ ánh sáng trong
chân không là cực đại và bất biến theo mọi hướng. Định đề này được rút ra bằng
thực nghiệm, còn lý thuyết của Einstein thì không thể chứng minh được tại sao.
Vây nên, nếu muốn coi bói toán là một khoa
học, ít nhất là Khoa học huyền bí, thì Tiên
đề đầu tiên của bói toán, là phải thừa nhận có một sự sắp đặt trước nào đó của
tạo hóa khi một con người sinh ra. Nói theo ngôn ngữ khoa học, đó là tạo
hóa đã lập trình cho mỗi sinh linh khi ra đời và việc bói toán là việc cố giải mã
lập trình của tạo hóa. Trong cái gọi là
Khoa học Huyền bí về bói toán tồn tại nhiều thuyết huyền bí, mỗi thuyết đều
phải dưa trên một hay nhiều định đề cơ sở. Ví dụ bói vân tay thì coi vết chỉ
tay là dấu hiệu của cuộc đời. Bói mai rùa (Trung Hoa), bói chân gà (Việt nam),
bói lòng lợn (Châu Phi) cũng tượng tự. Bói Kiều thì coi 3254 câu Kiều là chỉ
dấu của đời người…Nói chung là rất tùy tiện, không có bài bản gì để bàn luận.
Tuy nhiên, nền minh triết đông tây hiện nay tồn tại ba học thuyết tiên tri
tương đối có bài bản đó là Chiêm tinh học (Astrology), Kinh Dịch, Tử Vi.
Ba ngàn năm trước Công nguyên, người Lưỡng Hà (Vùng
Irac-Syria ngày nay) bắt đầu mày mò nhìn đoán sao trên trời-Chiêm tinh (Astrology) . Họ đã quan sát bầu trời và phát hiện ra
chuyển động biểu kiến của mặt trời tương
ứng với vị trí các chòm sao nhất định , có tính chu kỳ hàng năm. Và sau đó
người Babylon
tạo ra 12 ký hiệu Hoàng đạo. Người Ai Cập cải tiến nó và đến lượt người Hy Lạp
thì hệ Hoàng đạo (Zodiac) đã hoàn chỉnh.
Họ đã chia một chu kỳ mặt trời ra được 12 cung (độ dài khoảng 30 ngày) định vị
với các chòm sao tương ứng trong một năm. Ngày sinh của một cá thể người là chỉ
dấu gắn chặt với cung hoàng đạo, nên đó là cung chiếu mệnh của cá thể đó. Định
đề này có thể chấp nhận được. Hơn nữa, thuyết này đã có một cơ sở khoa học khá
sớm , đó là thừa nhận mặt trời là một tác nhân chủ yếu đến sự hình thành và
phát triển con người. Nhưng khi đi xa hơn, mỗi cung Hoàng đạo lại được gắn cho những
thuộc tính nhân tạo, cùng với những tương tác của các cung Hoàng đạo với nhau thì
thật là đáng ngờ. Ví dụ , lấy gì để nói rằng Capricornus – Ma Kết (22/12 –
19/1) , Virgo – Xử Nữ (23/8 – 22/9), Taurus – Kim Ngưu ( 20/4 – 20/5) là
nhóm Đất,. Những người sinh ra trong nhóm Đất rất chung thủy, cần cù, ôn hòa và
khoan thai ! Và khi
lấy đó làm một định đề cơ sở để tiên đoán thời mệnh của con người thì đó là
việc hoàn toàn tùy tiện, không thể lý giải. Nhưng đó lại chính là mảnh đất làm
ăn của các nhà Chiêm tinh học cổ đại và hiện đại. Dù biết là vô lý như vậy
nhưng loài người ngày nay , nhất là giới trẻ vẫn gửi niềm tin vô vọng vào đó.
Ở Phương Đông thì cũng thịnh hành
một kiểu gần giống thuật chiêm tinh nói trên, gọi là Tử Vi. Khởi nguồn muộn
hơn, có thể là thế kỷ 10 sau CN, và được quy cho Trần Đoàn , hiệu là Hi Di ,
đời Tống sáng tạo ra. Cũng giống như thuật Chiêm tinh Tây phương, Tử vi cũng
coi số mệnh con người được an bài từ lúc chào đời. Lấy ngôi sao ứng với thời
điểm chào đời làm sao chiếu mệnh. Thời điểm chào đời tính theo lịch Mặt trăng ,
mà tên gọi của năm là tổ hợp của 10 can và 12 chi –tức 12 con giáp. Việc thừa
nhận ảnh hưởng của vũ trụ và đặc biệt là chu kỳ mặt trăng đến con người là có
tính khoa học. Từ các thông số đó và giới tính , theo một quy trình do con
người không dựa trên bất kỳ cơ sở nào để xếp các sao thành một lá số . Đó là
điều thứ nhất mang tính áp đặt buộc phải thừa nhận mà không lý giải được vì
sao. Cái thứ hai không thể lý giải được là hệ thống sao của Tử Vi đã không theo
một quan sát thiên văn nào cả mà hoàn toàn do con người tự đặt ra (Ban đầu theo
Hi Di thì có 93 sao, hậu thế thì lại an đến 118 sao). Điều vô lý thứ ba, Tử Vi
cũng gán cho mỗi sao mỗi thuộc tính và quy luật tương tác không dựa trên một cơ
sở nào cả. Điều này cũng hoàn toàn giống như điều phi lý của Chiêm tinh học khi
quy cho mỗi cung Hoàng đạo một thuộc tính. Khi được hỏi cơ sở nào để thừa nhận
thì được trả lời: theo người xưa truyền lại. Nói khác đi, tiên đề cho học
thuyết Tử vi là: Người xưa bảo thế! Vô lý chưa, vậy nhưng tin thì cứ tin , và
sự thực thì bói Tử vi vẫn tồn tại mãi mãi . Con người mà !
Phương Đông từ rất sớm , quan niệm vạn vật từ vũ trụ đến con người là sự
kết hợp của âm dương và từ hơn năm ngàn năm trước CN đã xây dựng được một hệ
thống biểu diễn toán học cuả quan niệm tổng quát đó bằng các quẻ của Kinh Dịch.
Cổ nhân dùng một nét gạch liền gọi là Dương và một nét đứt đoạn gọi là Âm. Đó
chính là Lưỡng nghi , theo toán học ngày nay đó là cơ số 2. Khi chồng hai gạch
đó lên nhau, thì thu được 4 tổ hợp, gọi là Tứ tượng , tương ứng 22.Chồng
thêm một gạch (liền hoặc đứt) nữa thi thu được tám tổ hợp , gọi là bát quái ,
tương ứng 23. Chồng hai tổ hợp của bát quái lên nhau, thu được tất
cả 64 tổ hợp , gọi là Trùng quái, tương ứng 26.. Cho đến đoạn này
thì các quan niệm âm dương, xây dưng nên hệ cơ số hai là hoàn toàn khoa học. Đáng tiếc là cổ nhân phương Đông
(Trung Hoa hay Việt gì đó) hơn 4000 năm trước chỉ dừng lại ở 64 quẻ Dịch , không
thể đi xa hơn để xây dựng nên Đại Số Học Nhị Phân, cơ sở cho máy tính hiên nay
! Trái lại cổ nhân lại coi chúng như biểu trưng cho sự bí ẩn huyền diệu . Các
bậc thánh hiền hậu sinh , mỗi người mỗi cách gửi gắm minh triết của mình vào
mỗi quẻ Dịch một bài thuyết giảng, bắt đầu từ Chu Văn Vương viết lời Soán, con
là Chu Công viết Hào từ , rồi Khổng tử giải nghĩa thêm gọi là Thập Dực, thế là
bộ Kinh Dịch huyền bí hoàn thành, người đời sau cứ thế mà suy luận thoải mái,
gọi là giải Dịch. Vì dựa trên hệ nhị phân, giống như đồng tiền có hai mặt quy
ước Âm-Dương, nên khi gán một quẻ Dịch cho đối tượng nào thì làm thủ thuật xin
quẻ, đơn giản nhất là tung đồng tiền sấp ngữa (Âm hoặc Dương), hoặc rút hay xóc
thẻ làm bằng các lóng tre có đốt hay không có đốt. Sau một số lần gieo nhất
đinh thì thu được một quẻ Dịch cho đối tượng đó. Thế là các nhà bói dịch dựa
vào các lời thánh hiền viết cho mỗi quẻ mà giải thuyết, không khác gì dân Việt
ta bói Kiều, đối tượng tin tuyệt đối ! Nội dung của Chu Dich gồm phần Kinh Dịch
là phần về bói toán. Phần thứ hai là Truyên Dịch là giải thích Kinh Dịch đậm
chất triết học, nhưng mơ hồ huyền bí lắm. Chỉ có thể bàn về phần bói dịch, rằng
việc gán cho mỗi quẻ dịch mang một phần triết thuyết nào đó là không có cơ sở
và việc giải đoán nó lại càng mơ hồ. Sau nữa , thủ thuật xin quẻ cho đối tượng dưa trên sự xin quẻ
ngẫu nhiên, rõ ràng là thua xa việc dựa trên thời điểm sinh nhật của đối tượng
như thủ thuật Chiêm tinh học hoặc Tử Vi sử dụng. Cái duy nhất khả dĩ chấp nhận
được trong bói Dịch là quan niệm mọi thực thể vũ trụ, kể cả con người, là chịu ảnh hưởng của vũ trụ và là sự kết hợp
âm dương mà phát triển lên[3].
Tóm lại, cả ba thuyết phổ biến về
tiên tri bói toán này đều xuất phát từ những quan niệm (hay định đề-Postulate) tương
đối khoa học nhưng khi diễn dịch ra để áp dụng làm công cụ bói toán-tiên tri
thì hoàn toàn khiên cưỡng, tùy tiện, phi khoa học và phi logic.
LIỆU CÓ THỂ BIẾT TRƯƠC SỐ PHẬN ĐƯỢC CHĂNG ?
Khoa học hiện nay chưa thể lý
giải mọi hiện tượng. Vì vậy có lúc cũng phải viện dẫn đến niềm tin để làm cơ
sở. Chẳng hạn, có linh hồn hay không ? Khoa học không thể phủ định cũng không
thể khẳng định. Đa số tin rằng con người bao gồm phần thực thể (Physical) và
phần tinh thần (spirit). Phần tinh thần quá cao siêu, không dám bàn về số phận
tinh thần. Vậy chúng ta chỉ bàn về số phận cho phần thực thể mà thôi. Nếu loại
bỏ những điều phi khoa học, không logic và mang màu huyền bí thì những luận cứ của
Chiêm tinh, Tử vi, Kinh dịch khả dĩ chấp nhận dưới góc nhìn khoa học có thể tóm
tắt thành các Định Đề (Postulate) dưới đây:
1- Con người sinh ra đã được tạo hóa định mã
lập trình (có thể hiểu là số phận).
2- Con người là một thực thể của vũ trụ, do âm
dương kết hợp mà thành, chịu ảnh hưởng của vũ trụ trong quá trình hình thành.
Mà ảnh hưởng quyết định nhất là mặt trời và mặt trăng.
3- Sự phát triển của đời người
dựa trên cơ sở lập trình lúc hình thành và biến chuyển liên tục dưới tác động
của vũ trụ.
4- Dấu ấn của vũ trụ và mã lập
trình được xác định trong khoảng thời gian hình thành lấy thời điểm ra đời (ví
dụ lấy ngày sinh) làm mốc.
Sử dụng định đề số 2, ta coi tác
động của vũ trụ gói gọn lại gồm trái đất mặt trời và mặt trăng. Mặt trời là có
ảnh hưởng lớn nhất, vì vậy đơn vị tính thời gian là lấy năm mặt trời, tức một
vòng quay biểu kiến của quả đất quanh mặt trời. Mặt trăng tuy nhỏ hơn nhiều sao
khác nhưng gần trái đất nhất, nên quỹ đạo mặt trăng (tháng mặt trăng) cũng là
thông số chính yếu.
Diễn giải định đề số 4 ,chúng ta
coi 9 tháng trong bụng mẹ và ba tháng sau ngày sinh là năm mà tạo hóa tạo nên
hoàn chỉnh bộ mã lập trình, đánh dấu là tuổi số 0, là tuổi tiên thiên trời
định.
Mấu chốt để giải mã là diễn giải
định đề số 3. Theo tuổi tăng lên con người sẽ thay đổi. Những tuổi mà ở đó trạng thái của vũ trụ lặp lại trạng thái ở tuổi tiên thiên, thì dù có tạo nên sự biến
dịch, cũng vẫn là đồng dạng với mẫu hình như hóa đã ban tặng. Nói đơn giản đó
là tuổi những thay đổi đã theo một khuôn mẫu như khi tạo hóa sinh ra , không
biến đổi đột xuất.Ta gọi là tuổi Bình yên. Còn nếu ở tuổi mà trạng thái
vũ trụ thay đổi so với trạng thái ở tuổi lúc sinh ra, thì con người cũng thay
đổi không theo như ban sơ, ta gọi là tuổi
Biến dịch.
(lưu ý: Định đề này là mấu chốt
để phát triển các tính toán tiếp sau đây. Nếu không thừa nhận nó thì các phần
dưới đây vô giá trị)
Trạng thái vũ trụ của một thời điểm, ví dụ tại điểm bắt
đầu của năm hình thành nên con người (tuổi số1) được xác định bởi 3 điểm: Tâm
mặt trời (S) , Tâm Trái đất trên Hòang đạo (E) và Tâm Mặt trăng trên quỹ đạo
tháng (L) . Hết một năm mặt trời, Trái đất trở về điểm E còn mặt trăng trở lại điểm nào đó , L’ chẳng hạn
(Xem hình 1).
Hình 1
Có hai khả năng xẩy ra:
- Điểm L’ khác L. Trang thái vũ trụ của năm tiếp đó dĩ nhiên là khác với trạng thái năm đầu tiên, tất sẽ có những biến đổi và dịch chuyển mới , khác so với khi tạo hóa ban tặng cho ta lúc ra đời, cho nên gọi là tuổi Biến dịch.
- Cũng có thể sau một (hay nhiều năm) điểm L’ trùng hoặc gần trùng với L, năm tiếp đó có trạng thái lặp lại của năm số không. Con người phát triển là đồng dạng, tức cùng một khuôn mẫu với năm đầu tiên, như là tạo hóa đã ban cho, ta gọi là năm tuổi Bình yên
CÁC CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ VẬT LÝ THIÊN VĂN VÀ Y SINH HỌC
A- Xác định trạng thái Mặt trời- Trái đất-Mặt trăng.
Mặc dù con người có thể đo đạc và
tính toán chính xác đến từng giây, từng mét từng radian tọa độ vũ trụ của của
Mặt trời, Mặt trăng , nhưng ở đây ta chỉ cần dùng đến các quy luật thiên văn
chính xác đến ngày mặt trời (Solar day) hoặc ngày thiên văn (sidereal day) là đủ . Vị
trí của trái đất so với mặt trời được đặc trưng bởi quỹ đạo trái đất quanh mặt
trời, là năm mặt trời. Một năm mặt trời có 365,2425 ngày. Con số về ngày tháng
Dương Lịch (ngày tây) là chỉ thị gần đúng vị trí của trái đất trên quỹ đạo . Vị
trí của trái đất và mặt trăng quay quanh
trái đất so với mặt trời được xác định bởi quỹ đạo của mặt trăng quanh
trái đất (có tính đến sự dịch chuyển của trái đất quanh mặt trời) , tức là
tháng mặt trăng. Một tháng mặt trăng có 29,53059 ngày. Vị trí của mặt trăng trên
quỹ đạo chính là ngày tháng lịch mặt trăng (như lịch của đạo Hồi). Lịch ta là
âm dương lịch, cho nên ngày ta thì không chính xác hoàn toàn vì lịch ta đã hiệu
chỉnh theo lịch mặt trời bằng cách tính năm nhuận.
Quan sát bầu trời, đo đạc ngày
tháng, các nhà thiên văn đã khám phá ra:
a)
Chu kỳ 19 : 19 năm mặt trời =235 tháng mặt trăng, sai số
chỉ 0.003. Nói một cách gần đúng dễ hiểu là trạng thái của bộ ba Mặt trăng-Trái
Đất-Mặt trời cứ 19 năm lặp lại như cũ. Chu kỳ
này khá chính xác , hơn 4 trăm năm mới lệch một ngày, cho nên trong cõi trăm
năm người đời có thể coi là trùng lặp tuyệt đối. ( Vì lý do này mà trong lịch
pháp , cứ 19 năm dương lịch thì trong 19 năm âm lịch tương ứng phải có 7 năm
gồm 13 tháng , tức là 7 năm nhuận). Chu kỳ này có tên là Chu
kỳ Meton , đặt theo tên người Hy lạp đã khám phá ra (Meton of Athen ,năm 440 trước CN). Chu
kỳ Meton là do hai tiểu chu kỳ (chu kỳ con) gần đúng cộng
lại:
b)
Tiểu Chu kỳ 8 (octaeteris) : 8 năm mặt trời = 99 tháng mặt trăng , sai số
1,5 ngày, có nghĩa là cứ 5 năm thì lệch 1 ngày. Tiểu Chu kỳ này ta đặt tên là
chu kỳ ÂM.
c)
Tiểu chu kỳ 11:
11 năm mặt trời =136 tháng mặt trăng, sai số 1,5 ngày, tức là cứ 7,3 năm
lêch 1 ngày. Ta đặt tên tiểu chu kỳ này là Chu
kỳ DƯƠNG.
(Lý do gọi là DƯƠNG hay ÂM xin xem đoạn sau)
Để cho dễ hiểu,
nói một cách gần đúng thô sơ, trạng thái của vũ trụ được xác định bời ba con
số: Năm Dương Lich, Ngày Dương Lịch (ngày Tây) và Ngày Âm Dương Lịch (ngày Ta). Ví dụ ngày tết nguyên đán Ất Mùi (1/1)
năm nay là 19/2/2015 , 19 năm sau tết
Giáp dần cũng là ngày 19/2/2034, còn tết Bính tí 19 năm trước cũng là ngày 19/2/1996.
Có nghĩa là trạng thái vũ trụ các năm này lặp lại nhau. Nhưng mà 19/2/2014 chỉ
chệch một năm so với 2015 thì lại là ngày 20/1 Giáp Ngọ. Trạng thái vũ trụ
không lặp lại. (Các chu kỳ 8 và 11 thì con số không hoàn toàn trùng như vậy vì
năm nhuận chỉ hiệu chỉnh theo chu kỳ 19). Rất thú vị là liên hệ của ba chu kỳ 19=8+11
B- Số phận của con người do Mặt trời định sẵn?[4]
Trong một nghiên cứu chưa từng
có, các nhà khoa học Na Uy phát hiện, những người sinh vào các thời điểm Mặt
trời bình lặng có thể sống thọ hơn khoảng 5 năm so với những người chào đời lúc
Mặt trời hoạt động mạnh mẽ.
Kết luận trên được rút ra khi
nhóm nghiên cứu xem xét các dữ liệu nhân khẩu học của những người Na Uy sinh ra
trong khoảng 1676 - 1878 cùng với các kết quả ghi nhận quan sát về hoạt động
của Mặt trời.
Các chuyên gia nhận
thấy, tuổi thọ của những người sinh ra trong các giai đoạn hoạt động tối đa của
Mặt trời (đặc trưng bằng các trận phun trào dữ dội) tính trung bình thấp hơn
5,2 năm so với những người chào đời vào thời điểm hoạt động của Mặt trời giảm
tới mức tối thiểu.
Theo báo cáo nghiên cứu trên tạp
chí Proceedings of the Royal Society B, hoạt động của Mặt trời lúc chào
đời làm giảm khả năng sống sót tới khi trưởng thành của con người.
Hình 2: Hoạt động của Mặt trời
theo ghi nhận của Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA)trong giai đoạn từ năm 1850 - 2014. có chu kỳ 11
năm. Trên đồ thị là số liệu 100 năm .Ảnh: NASA
Mặt trời có các chu kỳ hoạt động
kéo dài xấp xỉ 11 năm, bắt
đầu từ một thời điểm hoạt động cực điểm này tới thời điểm hoạt động cực điểm
tiếp theo (Hình 2).
Thống kê còn cho thấy, 11 tuổi là tuổi mà các trẻ nam
hết thời kỳ trẻ con (baby), chuyển sang phát triển giới tính nam
Vì vậy chu kỳ 11 năm được gọi là chu kỳ Dương, biểu hiện cho
giới tính Nam .
C-Ảnh hưởng của mặt trăng
Mặt
trăng tuy nhỏ hơn mặt trời nhưng gần trái đất hơn nên ảnh hưởng của
mặt trăng tới trái đất mạnh hơn mặt trời. Ảnh hưởng của mặt trăng
tới trái đất có tác động không nhỏ tới hoạt động sống của con
người. Điều ai cũng biết là chu kỳ mặt trăng xác định chu kỳ kinh nguyệt của
nữ giới.
Hinh3: 8 pha của mặt trăng |
Sự phản chiếu của ánh sáng mặt trời lên mặt trăng cũng thay đổi theo
từng thời kỳ,gọi là các Pha của mặt trăng. ( Hình 3) . Tất cả những thay
đổi ấy đều được phản ánh trong cơ thể sinh vật và con người. Não
phản ứng rất nhạy bén trước những biến đổi đó, gây hàng loạt biểu
hiện về tinh thần. Các nhà khoa học khẳng định rằng những ngày trăng
non tác động khác với những ngày trăng
tròn. Các nhà y học cổ Tây Tạng còn cho rằng: Các bệnh nguy hiểm như
tai biến mạch máu não, bại liệt, động kinh, nhồi máu cơ tim, tâm thần
kích phát thường xảy ra vào các ngày 4, 8, 11, 15, 22, 29 tháng âm lịch.
Dù chưa khẳng định đúng sai, nhưng ảnh hưởng của trăng là rất lớn và đặc biệt
là phụ thuộc vào 8 pha của
chu kỳ mặt trăng.
Một
thống kê đã được khẳng định là năm
thứ 8, các em gái bắt đầu phát triển giới tính nữ. Vì vậy chu kỳ 8 năm là dành cho mặt
trăng, cho nên gọi là Chu Kỳ Âm, biểu hiện cho giới tính Nữ.
THỬ GIẢI MÃ SỰ LẬP TRÌNH CỦA TẠO HÓA CHO
BẠN.
Vậy là con người sinh ra (năm số1)
tiếp theo tám năm biến dịch thì đến tuổi (hầu như)bình yên đầu tiên, 8 tuổi, cũng là hết một chu kỳ Âm. Hai năm Biến dịch nữa (9,10) sang năm 11 tuổi
lại (hầu như) Bình yên, hết một chu
kỳ Dương. Năm 19 tuổi là hoàn thành chu kỳ Meton = ÂM+DƯƠNG, là tuổi (tuyệt
đối) Bình yên, âm dương hài hòa. Có
thể xác định Tuổi Bình yên (tính chất
chung cho các tuổi “hầu như” hoặc
“tuyệt đối” Bình yên) của đời người
theo công thức :
TUỔI
BÌNH YÊN= A x 8 + D x 11 , trong đó A và D là những số nguyên
dương.
Những tuổi còn lại, không thể
khai triển được như trên là Tuổi Biến dich .
1- Khi nào thì bước vào tuổi già
tự nhiên?
Trong trăm năm đời người thì có đến 66 năm là Bình yên , đó là các tuổi:
8,11,16,19,
22, 24, 27, 30, 32, 33, 35, 38, 40, 41, 43, 44, 46, 48, 49, 51, 52, 54, 55, 56,
57, 59, 60
62, 63, 64, 65, 66, 67, 68
70, 71, 72,
73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 87, 88, 88, 89, 90, 91,
92, 93, 94, 95, 96, 97, 98, 99, 100.
Trong 66
năm bình yên này có thể chia làm ba đoạn:
8-60 có 27
năm khá rời rạc, là đoạn tuổi trẻ và trung niên
62-68 có 7
năm liên tục, là đoạn cao niên
70 -100 có
32 năm (và tiếp nữa) liên tục là đoạn tuổi già
Tuổi 69 là
tuổi đặc biệt, vì đó là năm biến dịch cuối cùng. Sau đó là mãi mãi bình yên
,già dần.
Vậy khi 70 tuổi là bước vào Tuổi già trời định . Từ 69 về
trước là tuổi trẻ. trung niên và cao niên, gọi chung là tuổi Tráng Niên (tuổi còn khỏe mạnh)
2- Những năm tháng đẹp của tuổi Tráng
niên
Nói chung , những năm bình yên trong tuổi hoa niên là những
tuổi ít nhiều đều đẹp, ít phải lo lắng.
Tuổi Bình yên phân thành Tuổi Âm
thịnh , Tuổi Dương thịnh và Tuổi Hài hòa
D-A >0: Tuổi
Dương thịnh; D-A < 0: Tuổi ÂM
thịnh ; D-A=0 : Tuổi Hài hòa
Đối với cả hai giới những tuổi
hài hòa đều thuận lợi: 19, 38, 57
Đối với Nữ giới các tuổi âm thịnh là thuận lợi: 8, 16, (19), 24, 27, 32, 35, (38), 40, 43, 46, 48, 51, 54, 56, (57), 59, 62, 64, 65, 67.
Tuổi Đẹp nhất cho Nữ là các tuổi thuần âm: 8,16, 24, 32, 40, 48,
56, 64
Với Nam giới các tuổi dương thịnh là có
ưu thế hơn: 11, (19), 22, 30, 33, (38), 41, 44, 52, 55, (57) 63, 66, 68
Tuổi Nam nhi rực rỡ nhất là các năm
thuần Dương: 11, 22, 33, 44, 55, 66
3- Tuổi nào thì cần phải cẩn thận
Các tuổi biến dịch không phải là
hoàn toàn xấu, vì không có các sự biến dịch bổ sung thêm vào sự sắp xếp của tạo
hóa thì con người không phát triển đa dạng được. Tác động của môi trường, ngoại
cảnh, nội lực, ý chí…cũng không thể có. Tuy nhiên có sự biến đổi mạnh thì cũng
phải cẩn thận hơn.
Trong các Tuổi biến dịch cũng có thể định lượng được sự Biến dịch bằng một số
đo gọi là mức biến dị, . Theo quy
luật Vật lý , với cùng một mức độ thay đổi , nếu chuỗi biến dịch liên tục càng
dài thì thì độ biến dị càng thấp. Vì nếu có xẩy ra ở một điểm thì sự biến dịch
liền sau có thể sửa chữa lại.Vậy độ dài
của chuỗi tuổi biến dịch liền nhau đặc trưng cho mức biến dị. Chuỗi càng ngắn
thì tác động của mức biên dị càng lớn. Còn những tuổi biến dị đơn độc nói chung là dễ có những đột xuất đáng
ngại của đời người, vì một khi có biến dị xẩy ra thì không có chu trình biến dị
liền kề để điều chỉnh mà phải chờ đến năm biến dịch gần nhất mới có cơ hội điều
chỉnh.
Những năm đáng ngại đó là: 23, 31, 34, 39, 42, 45, 47, 50, 53,
58, 61, 69
Rõ ràng là mức độ đáng ngại của
năm đơn độc càng tăng lên khi mà khoảng cách tính đến năm biến dị gần nhất (gọi
là khoảng cô đơn) càng dài. Theo cách đó thì:
Năm Hạn: 53, 61, 69 . Do mức biến dị lớn nên 53 là năm Hạn nặng vì là năm bắt đầu có thay đổi
đột biến mạnh nhất ở tuổi trung niên. Tuổi 61 và đặc biệt 69 là nguy hiểm cho người cao niên,
vì là tuổi cuối cùng của đời người có đột biến.
Năm có nguy cơ: 31, 39, 42, 47, 50, 58
Năm lưu ý: 23, 34, 45
Ngoài ra, có thể xác định đoạn tuổi
nguy cơ, đó là khoảng mà hai năm có nguy cơ cách nhau gần nhất (chỉ có hai năm).
Đoạn tuổi nguy cơ: 39-42 và 47-50
4- Các cột mốc của tuổi già
Từ sau tuổi 69 là chuổi tuổi bình
yên liên tục , mọi thứ mà tạo hóa đã ban tặng sẽ suy giảm (già đi) đều đều theo
khuôn mẫu trời định lúc chào đời mà
không đột biến. Tuy vậy cũng có những cột mốc đáng lưu ý.
Đối với cả cụ Ông và Cụ Bà:
Mốc người già trở thành như
con trẻ, 88 tuổi là đạt điểm đặc biệt, đó là điểm đồng thời thuần ÂM (tổ
hợp 11 chu kỳ Âm) hoặc thuần Dương (tổ hợp 8 chu kỳ Dương) , không phân biệt, giống
như khi mầm sống nẩy sinh. Người già cũng có thể đổi tính lại như con trẻ: hờn dỗi, đòi hỏi thất thường...
Các mốc Âm-Dương hài hòa 76 và
95 cũng đáng chú ý.
Ở ba mốc dị thường này có thể rất
tốt cũng có thể rất xấu.
Đối với cụ Ông
Mốc đáng ngại đầu tiên là 72 vì
là hậu quả của năm nguy hiểm 61. Tiếp sau là mốc hài hòa 76, thuần Dương 77.
Mốc 80 là nguy hiểm ,vì đó là hệ lụy một chu kỳ dương của tuổi nguy hiểm 69.
Nếu vượt qua được các mốc dị thường 88,
95 thì hy vọng đạt 99 thuần Dương, vượt qua được thì trường thọ trên trăm tuổi.
Đối với cụ Bà
Mốc 77 là nguy hiểm vì là hệ lụy
của tuổi nguy hiểm 69. Nhưng 76 và 77 cũng là hai mốc dị thường , có xấu có
tốt, nên 77 có thể là rất nguy hiểm cũng có thể không. Tiếp sau đó chỉ còn là
các mốc dị thường. Vì chỉ cụ bà chỉ có một mốc nguy hiểm, còn cụ ông thì có 2,
cho nên nói chung cụ Bà sẽ sống thọ hơn cụ Ông cũng là trời định !
5- Chu kỳ
Tâm-Sinh lý
Một lẽ hiển nhiên là Tâm-Sinh lý
cũng phát triển theo các chu kỳ phát triển của con người. Tâm sinh lý ở chu kỳ
một là trung tính (baby). Giới tính hình thành và phát triển hoàn thiện ở chu
kỳ 2, tức 8-16 tuổi ở Nữ và 11-22 tuổi ở Nam . Ở giữa chu kỳ thứ hai này, nữ
thập tam (13), nam thập lục (16) đều dậy thì. Muốn có hòa hợp Tâm-Sinh Lý thì
tốt nhất là Nam-Nữ cùng chu kỳ phát triển. Ví dụ lấy nhau ở chu kỳ 3, nữ trong
khoảng 17-24 mà kết hôn với nam trong khoảng 22-33 là hợp lẽ trời nhất. Theo
nguyên lý đó thì :
Nữ 25-32 hợp với Nam 34-44
Nữ 33-40……….. Nam 45-55
Nữ 41-48……… Nam 56-66
Nữ 49-56……… Nam
67-77
Nữ 57-64……… Nam
78-88
Cũng có vẻ buồn cười nhưng đúng
là thống kê y học chứng minh rằng, ở tuổi Nữ 64 và Nam 88, tức chu kỳ 8 của đời
người, thì hoạt động sinh dục mới dừng hẳn.
THAY LỜI KẾT
Luận thuyết trình bày trên đây là dựa trên cơ sở tính toán
khoa học, không mang chút nào tâm linh, huyền bí gì cả. Một luận thuyết khoa
học có đúng không , cần phải qua kiểm chứng độc lâp. Ít nhất nó cũng phải giải
đoán được những điều đã biết và tiên đoán được những điều chưa biết để tiếp tục
kiểm chứng.
Dân gian có câu: 49 chưa qua
53 đã tới, hay Nữ thập tam Nam
thập luc. Luận thuyết nêu trên đây lý giải được tuổi cả hai khá tốt. Còn
tuổi 49 dân gian cũng cho là hạn, thì tạm lý giải trong khoảng 47-50. Mà thực
sự thì tuổi hạn 49 cũng du di trên thực tế.
Trong khoảng 53, 61,69 (có tính
đến sai số) thì người ta nhận thấy có nhiều
người từ trần ốm đau, bệnh tật nhất.
Ví dụ như biểu đồ NGHIÊN CỨU TỬ
VONG DO UNG THƯ VÚ TẠI CÁC TỈNH BẮC NINH, LÂM ĐỒNG, BẾN TRE NĂM 2008[5]. Ta
thấy rõ tỷ lệ tử vong rất cao ở độ tuổi 50-60 là tuổi có biến dị lớn nhất
Các tiên đoán ở các tuổi Biến dị
, Cô đơn, hoăc Bình yên khác có lẽ cần được kiểm chứng bằng các số liệu thống
kê khoa học, xem có đúng không. Đây chỉ là những kết quả ở cấp gần đúng thấp nhất. Khi nâng cao cấp gần đúng
và độ phân giải , lưu ý cả không thời gian sinh ra của từng người, ta có thể dự
đoán đến chi tiết hàng tháng , hàng ngày.. của từng cá thể riêng biệt. Nhiều
điều bất ngờ dự đoán quy luật tương lai từng người trên cơ sở khoa học đang
được chờ đợi.
Có rất nhiều dữ kiện đã được tiên
đoán, hy vọng mọi người có thể tự kiểm chứng đúng sai và phản biện lại.
Nhân dịp đầu xuân, góp chuyện cho
vui, ai tin thì tin, không tin thì thôi, xin đừng bận tâm !
BẢN WEB NÀY LÀ BẢN ĐẦY ĐỦ
[2] Theo
cách hiểu kinh điển: Tiên đề (Axiom) là nguyên lí xuất phát của ngành khoa học,
Định đề (Postulate) là nguyên lí xuất phát của một lí thuyết cụ thể.
[3] “Dịch
hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi, nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái,
Bát quái định Cát hung, Cát hung sinh Đại nghiệp.”
[5] Luận văn
của Bác Sĩ Trần Thị Hương http://share.pdfonline.com/b02546d525354d2cafd7aefe6386b6b4/t_%20l_%20t_%20vong%20do%20ung%20th_%20v%C3%BA.in.htm#page_47
Nhà bác học có một bài
Trả lờiXóaĐầy bồ kiến thức thật dài thật sâu
Đọc mà chậm hiểu rất lâu
Đọc xong để đó năm sau lại vào.
Cảm ơn bạn đã vào thăm nhà sớm. Số mệnh mà lại, nó theo ta suốt đời, cho nên bạn để năm sau lại vào là ...chính xác tuyệt đối!
XóaTrân trọng sự dầy công nghiên cứu của các nhà Khoa Học !
Trả lờiXóa