Thánh dạy: Vào tuổi bốn mươi không lầm
lẫn nữa
(Tử viết: Tứ thập nhi bất hoặc子曰:四什而不惑)
Bốn thập kỷ hết đánh nhau,
Ngẫm mình lạc hậu mà đau đớn lòng!
Đã gần 4 thập kỷ trôi qua ,kể từ
1975. Sau gần 4 thập kỷ ít đánh nhau , xã hội Việt Nam hiện nay phân thành hai
nhóm lớn, nhóm U50+ (45 tuổi trở lên) và nhóm U45- (dưới 45 tuổi). Nhóm tuổi
trẻ U45- là nhóm ít dính líu trực tiếp với quá khứ, dù cho lớn lên ở trong hay
ngoài nước , đối với họ , thay đổi cái cũ lỗi thời để VN có một thể chế hội
nhập, tiến bộ , hòa hợp dân tộc ,là điều ít phải bàn cãi.
Tuy nhiên , dẫn dắt gia đình và xã hôi, cả kinh tế và chính trị , cả đức tin và tâm linh , ân oán vay trả hiện tại và tương lai…lại thuộc nhóm U50+. Do những trái nghiệm cuộc sống, họ phải cân nhắc nhiều điều là tất yếu. Vì vậy, những điều được viết dưới đây, là những nhận xét không định kiến,với mong muốn cung cấp cho nhóm U50+ ,thuộc mọi phía, mọi nơi, một góc nhìn khoa học khách quan để tham khảo.
Tuy nhiên , dẫn dắt gia đình và xã hôi, cả kinh tế và chính trị , cả đức tin và tâm linh , ân oán vay trả hiện tại và tương lai…lại thuộc nhóm U50+. Do những trái nghiệm cuộc sống, họ phải cân nhắc nhiều điều là tất yếu. Vì vậy, những điều được viết dưới đây, là những nhận xét không định kiến,với mong muốn cung cấp cho nhóm U50+ ,thuộc mọi phía, mọi nơi, một góc nhìn khoa học khách quan để tham khảo.
Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ chính
trị toàn cầu
Hãy xem ý kiến của người ngoài là các nhà khoa học thế giới
(theo wikipedia)
đánh giá về thể chế của Việt nam.
-Phân loại theo hình thức hiến định (constitutional
form),trong 181 quốc gia trên thế giới
thì có 137 nước Cộng hòa (republic ) 38 nước Quân chủ lập hiến (constitutional
monarchy) 6 nước là Quân chủ chuyên chế
(absolute monarchy). Việt nam thuộc nhóm 137 nước Cộng hòa
-Xếp loại theo Nguồn gốc quyền lực (power source) thế giới
phân ra 4 nhóm:
· Dân
quyền (rule of the people =Democracy :Quyền lực là của dân, tức là Dân chủ),
· Quân
quyền (monarchy- Quyền lực thuộc quân
vương)
· Thần
quyền (theocracy- Quyền lực thuộc thánh
thần, do người (tự nhận) đại diện thánh thần thực thi)
· Chuyên
quyền (authoritarianism)
-Toàn thế giới có 25 quốc gia Dân
chủ đầy đủ (democracy) 53
nước Dân chủ khiếm khuyết (Flawed democracy). Trong danh sách 78 nước này
không có tên Việt nam..
-Việt nam cũng không thuộc hai
loại Quân quyền hoặc Thần quyền vì không có vua chính thức nắm quyền và không
có giáo chủ của tôn giáo nào chi phối quyền lực.
-Các học giả quốc tế thống nhất
xếp Việt nam vào nhóm Chuyên quyền nhưng không nhất trí được là thuộc dạng nào
của chuyên quyền. Trong nhóm chuyên quyền
theo lý thuyết có 4 kiểu, là Thể chế độc tài (Dictatorship) ,
Chuyên chế độc đoán(Autocracy) Chuyên chế (Authoritarian
rule), Toàn trị (Totalitarian rule-). Các học giả loay hoay xếp Việt
nam hoặc thuộc dạng Chuyên chế (Authoritarian
rule) hoặc thuộc kiểu Toàn trị (Totalitarian rule-). Toàn trị là một hệ thống chính trị mà nhà nước nắm toàn
quyền cai trị toàn xã hội và khi cần thiết thì tìm mọi cách khống chế mọi măt
đời sống công cộng và riêng tư (Totalitarian
rule is a political system in which the state holds total authority
over the society and seeks to control all aspects of public and private life
whenever necessary ). Như
vậy thì việc xếp Việt nam vào kiểu Toàn trị là phù hợp định nghĩa. Tuy nhiên sự
thật chưa hẳn là như thế , vì chế độ Toàn trị (như Liên xô trước đây) có đặc
trưng là mức tham nhũng thấp, uy tín
(charisma) chính quyền là cao.
Trong khi đó Việt nam lại tham nhũng cao , uy tín chính quyền thấp. Vì vậy họ xếp
Việt nam vào một nhóm riêng gọi là Chuyên chế toàn trị độc đảng (Single Party).
Cùng nhóm này có Trung quốc, Cu ba, Lào, Triều tiên , Eritrea, Sahrawi
, Turkmenistan. Lưu ý là hơn 20 năm trước ,
thế giới có đến hơn 80 nhà nước là độc đảng hoặc thực chất là độc đảng. Nay hầu
hết đã từ bỏ, chỉ còn lại 7 nước nói trên là vẫn kiên trì !
Không bàn chuyện xấu tốt, chỉ cần nhìn trên bản đồ chính trị
toàn cầu mà các học giả thế giới đã vẽ ra, thì thấy hiện lên một cách rõ ràng
sự lạc lõng , phản tiến hóa của thể chế
chính trị của Việt nam. Tất nhiên Việt nam phải phản bác cách phân loại này.
Vậy hãy xem Việt nam, bằng văn bản và bằng hành động, tự nhìn nhận mình như thế
nào.
Bản chất của chế độ chính trị và Nhà
nước Việt nam hiện tại
Hội nghi TW 7 ngày 3-5-2013,
TBT Nguyễn Phú Trọng yêu cầu (trích) kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc,
thuộc về bản chất của chế độ chính trị và Nhà nước ta,(hết trích dẫn)..
Một cách chính thức, cho đến 1975
theo Hiến pháp, nhà nước Việt nam được hiến định là thể chế dân chủ cộng hòa.
Từ Hiến pháp 1980 , chính thức Việt nam công khai tự nhận là nhà nước chuyên
chế , ghi tại điều 2 : Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước Chuyên chính vô sản (proletarian Dictatorship) đồng
thời là Độc đảng, ghi tại điều
4. Sau sự sụp đổ phe XHCN thế giới, Hiến pháp VN 1992 vẫn giữ nguyên điều 4 và
tuy không công khai ghi nhận thể chế là nhà nước chuyên chính nữa nhưng cũng
không quay lại thể chế dân chủ , mà chọn cách
bỏ trống không định danh nữa . Khi bổ sung vào năm 2000 và trong dự thảo
sửa đổi 2013 , ghi nhận thể chế chính trị của nhà nước Việt nam là Pháp quyền
XHCN. Về khoa học, đó là một thể chế chính trị chưa hề được xác định, chưa có
tiền lệ trên thế giới. Theo thừa nhận của đảng Công sản Việt nam, nơi sáng tạo
ra khái niệm này , Nhà nước Pháp quyền
XHCN chính là Nhà nước chuyên chính vô sản (“Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên chính
khối Đảng, đoàn thể năm 2012”). Như vậy, bản chất của thể chế nhà
nước Việt nam , do chính bản thân đảng và nhà nước Việt nam thừa nhận, đúng là Thể chế Chuyên chế Độc đảng, như
sự phân loại của thế giới.
Trên thực tế ,thì thể chế chính
trị của Việt nam hiện nay còn pha trộn thêm đặc điểm của Thần quyền. Tuy không
lấy giáo lý thần linh (như Kinh Thánh, Kinh Quran..) làm chỗ dựa, nhưng lại sử
dụng giáo lý của học thuyết Marx-Lenin còn hơn kinh thánh, không được xa rời
,dù chỉ một ly. Nên nhớ rằng ,ngay cả Trung quốc, thì học thuyết Marx-Lenin
cũng không được khẳng định là giáo lý. Họ lấy thuyết xã hội chủ nghĩa mang màu
sắc Trung hoa làm nền tảng, và thực thi chủ nghĩa thực dụng “mèo trắng ,mèo
đen”. Đảng CS VN tự nhận và buộc toàn dân chấp nhận vai trò lãnh đạo của đảng
như một mặc khải thần quyền, và trên thực tế cấp ủy đảng ,được đặt ở mọi cấp,
thực thi chức năng không khác gì vai trò của chủ chăn tôn giáo. Trong thể chế
thần quyền, giáo chủ đóng vai trò lãnh tụ tinh thần, với quyền khống chế, can
thiệp tuyệt đối nhưng không chịu trách nhiệm cụ thể.
Đảng CSVN không xác nhận vai trò
là đảng cầm quyền , đồng nghĩa với không chịu trách nhiệm thành bại của điều
hành ( dù di chúc của lãnh tụ quá cố của đảng ,Hồ chí Minh , đã xác định rõ
ràng, nhưng không được các văn kiện đảng chính thức ghi nhận). Đảng tự thiết lập cho mình vai trò lãnh đạo,
quyết định và khống chế tất cả nhưng không không chịu trách nhiệm cụ thể ,
giống như thần quyền vậy.
Thể chế của Việt nam cũng pha
trộn đặc điểm của chế độ quân quyền, như có vị nguyên chủ tịch quốc hôi đã nhận xét, với một vua tập thể , là mười mấy
vị trong Bộ Chính trị.
Tóm lại, ở mọi góc nhìn, hoặc do nhà
nước VN và đảng CSVN tự xác nhận, công khai hoặc che đậy , hoặc là từ phân loại
của thế giới, và sự nhìn nhận trên thực
tế, thể chế của nhà nước Việt nam hiện nay là một nhà nước chuyên chế toàn trị độc đảng pha lẫn thần quyền và quân
quyền. Đó phải chăng là cái mà dân tộc này phải khẳng định và kiên trì .
Thể chế chính trị và sự phát triển
của dân tộc
All's Well That Ends Well (W.
Shakespeare), Ende gut, alles
gut (tục ngữ Đức): Kết cục
tốt thì tất cả là tốt! Thể chế chính trị nào kết cục mà mang lại phồn vinh,
hạnh phúc thì đều tốt. Trong lịch sử phát triển, chế độ chuyên chế , toàn trị
cũng không phải là hoàn toàn tiêu cực. Thể chế này có ưu điểm là trong một giai
đoạn cần thiết, với sự cưỡng bức theo mục tiêu chấn hưng dân tộc và nếu có sự cai
trị thông minh , hết lòng vì nước, vì dân ,dù biện pháp có tàn bạo, cũng có thể
đưa một dân tộc từ yếu hèn lạc hậu nhanh chóng phát triển thành một dân tộc phồn
vinh ,hùng mạnh. Những thí dụ như vậy khá nhiều, ví dụ như Liên xô thời 1924-1940,
Đài loan thời Quốc dân đảng 1948-1987.. Một thí dụ khác là Hàn quốc 1960-1990
mà các nhà lãnh đạo Việt nam lấy làm gương để biện minh. Hàn quốc rất tương
đồng với Việt nam, là một nước thuộc địa đến 1945, sau đó trải qua chiến tranh
tàn phá đến năm 1954 mới yên. Nếu nhìn lại giai đoạn 30 năm 1960-1990 của Hàn
quốc thì rất giống với Việt nam giai đoạn 1981-2010: cũng sau chiến tranh tàn
phá 6 năm, cũng có sự nghèo khó như nhau (GDP Hàn quốc 1960 là 155 US$, Việt
nam năm 1981 là 251$ ), cũng có một thể chế chính trị chuyên chế độc tài, phản
dân chủ. Tình trạng phát triển của hai nước sau 30 năm như thế nào, xin mời xem
biểu đồ dưới đây , lập theo số liệu từ Nguồn:
WB, IMF:
Sau 30 năm , với mức tăng GDP 34 lần, Hàn quốc trở thành cường quốc, dù sau đó họ chuyển sang thể chế dân chủ theo quy luật tất yếu, nhưng công lao của thế hệ chuyên quyền vì sự chấn hưng của dân tộc Hàn , như Pak Chung Hee vẫn được ghi nhận. Bằng chứng là con gái của nhà độc tài sau hơn 30 năm lại được dân chúng bầu làm tổng thống. Cũng 30 năm chuyên chế, cũng hòa bình xây dựng, cũng cùng mức xuất phát, nhưng Đảng CS VN chỉ đưa đất nước tăng trưởng được 4,25 lần , bằng 1/8 của Hàn quốc. Quốc gia VN vẫn nghèo nàn lạc hậu. Dù luôn luôn lớn tiếng sự tăng trưởng là thành tích lớn của lãnh đạo VN , là ưu việt của chế độ, nhưng con số so sánh nói trên là bằng chứng không cần bình luận , đâu là sự thật. Chỉ có thể có một kết luận: Trong 4 thập kỷ vừa qua giới cầm quyền nhằm bảo vệ cái ghế quyền lực đã và đang giành được , để củng cố và mở rộng những lợi ích béo bở của mình, họ đã và đang quay lưng lại với nhân dân. Với một mục đích như thế thì bộ máy toàn trị đó không thể là nơi tập hợp tinh hoa của đất nước để tạo nên bước nhảy thần kỳ, như thường được tuyên truyền. Dân tộc VN đã bị nhầm lẫn, phải trả cái giá quá cao để đổi lấy một thảm hoạ cho sự chấn hưng thất bại.
Người ta cũng thường biện minh
rằng, dân chủ, đa nguyên, đa đảng làm cho xã hội mất ổn định , ảnh hưởng đến
phát triển kinh tế xã hội, lấy thí dụ điển hình như nước láng giềng Thái lan ,nước
được thế giới xếp vào loại dân chủ còn khiếm khuyết. Đó là lý do mà lãnh đạo đảng
CS VN viện dẫn để Việt nam phải kiên trì
những vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc về bản chất của chế độ chính trị và Nhà
nước ta,..Muốn nhìn nhận vấn đề này một cách khách quan , hãy so sánh sự
phát triển của Việt nam và Thai lan trong hơn 30 năm vừa qua (1980-2012):
Xuất phát điểm 1980 Việt nam chỉ kém Thái lan rất it , 74% tức xấp xỉ 3/4 Thái lan thôi, nhưng đến nay , năm 2012 Việt nam chỉ còn bằng 26,8
% tức xấp xỉ ¼ Thái lan. Thể chế nào ưu việt hơn cho sự phồn vinh của dân tộc
quả thật không cần bàn cãi. Trường hợp Thái lan và Việt nam là một chứng minh,
cùng một trình độ tầm thường như nhau của giới cầm quyền thì thể chế dân chủ đã
chiến thắng thể chế chuyên chế toàn trị độc đảng .
Khi Đảng CSVN tự hào tuyên bố năm 2020 VN sẽ là một nước công
nghiệp , thì thực trạng sẽ như thế nào ?. Năm 2012 Việt nam (1373$) bằng Thái lan năm 1981-82, tụt hậu 30-31 năm. Còn
năm 2019 IMF dự đoán Việt nam (2473$) bằng Thái lan năm 1985 , tụt hậu 34 năm .
Khoảng cách thụt lùi so với Thái lan không những không giảm mà còn bị nới rộng
ra. Vậy thì có còn hy vọng phép màu nào
cho thể chế ưu việt này để đuổi theo hàng xóm, nói chi đến chuyện biến VN thành rồng .
Ai đó cho rằng, so sánh với nước
ngoài chỉ để làm rối lòng dân , gây cản trở cho ổn định, vì sự thật không thể
phủ nhận là người dân Việt nam ta hôm nay ăn no ,mặc ấm hơn hôm qua nhiều, còn muốn
đòi hỏi gì nữa đây ! Đã gần 4
thập kỷ kể từ mốc 1975. Thử nhìn lại các chu kỳ 40 năm đã xẩy ra ở nước
ta. Thực dân Pháp chỉ có 40 năm là thời gian 1900-1940 tương đối yên ổn để xây
dựng và bóc lột nước ta. Bảy mươi lăm năm sau, bốn thập kỷ 1975-2013 cũng là
thời gian CHXNCNVN tương đối yên ổn xây dựng đất nước. Trong 4 thập kỷ thực dân
Pháp đã dùng một phần của cải của VN (còn phần lớn bị bóc lột mang đi) cùng với
95% dân VN mù chữ để xây dựng hệ thống Đường sắt , đường bộ, cảng biển, sân
bay…đã xây dựng Hà nội, Sài gòn.. đẹp nổi tiếng nhất Á châu…. Bây giờ ,với
trình độ KHCN gấp trăm lần so với 75 năm trước và với 95% dân biết chữ ,cũng
với 4 thập kỷ yên ổn ,VN đã hoàn thành việc nông thôn hóa Hà nội ,Sài gòn. Hệ
thống đường sắt còn kém hơn thời Pháp. Hệ thống đường bộ ,cảng biển cải tiến
chắp vá , không xây nổi một đường cao tốc Bắc –Nam là điều tối thiểu cho hạ tầng
bất kỳ quốc gia nào. VN tự hào từ thiếu đói triền miên, năm 1990 đã trở thành
nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới. Nhưng trước 1945 Nam kỳ vốn là địa phương xuất khẩu
gạo lớn rồi. Người VN sướng hơn trước thực ra là sự phục hồi đương nhiên của mọi dân tộc có sức sống, không phụ
thuộc vào lãnh đạo, chưa kể dân VN đã bị dìm xuống đáy trước đó do lãnh đạo sai
lầm.
Nhìn ra xung quanh thì thua kém
xa thiên hạ. Đóng cửa tự khen cũng không thuyết phục. Đấy chỉ là mấy thí dụ đong
đếm được, chưa bàn đến chuyện cao siêu như sự xuống cấp của đạo đức, sự tụt hậu
về trí tuệ, sự tan rã của văn hóa xã hội, sự chia rẽ, hận thù ân oán vay trả
trong lòng dân tộc. Tham nhũng tràn lan , dân mất lòng tin vào chính quyền, xã
hội mất động lực phát triển. Nhà nước nhìn vào dân mà chỉ thấy kẻ thù. Tự cổ
chí kim, đó là mầm họa của diệt vong, chẳng là chuyện đau lòng lắm chăng !
Bốn thập kỷ hết đánh nhau
Thay đổi hay chết ! Tính sao bây giờ
Đối với một dân tộc, nếu sự thụt lùi ngày càng mở rộng
,thì trong cái thế giới phẳng này , điều đó có nghĩa là sự diệt vong ngày càng gần lại. Chỉ có thay đổi mới tránh
được họa diệt vong. Nhưng nói đến thay đổi , đặc biệt là thay đổi thể chế chính
trị, thì nhiều người lớp U50+ hoặc là ngại
ngần, sợ hãi ( nhất là U50+ trong chính giới), hoặc là đả phá cực đoan, nuối
tiếc vô vọng về quá khứ trước75 cả hai phía. Một số lớn U50+khác thì an phận
chịu đựng.Vì sự kìm kẹp tự nhiên bởi lớp U50+, lớp trẻ U45- cũng bị thui chột
luôn.
Luận bàn về Thay đổi
Với người Việt, Kinh Dịch 易經
và tin quẻ bói Dịch dường như là sự chấp nhận đượm màu huyền bí, không phải bàn
cãi (thậm chí còn có người cho rằng, Kinh Dịch là của người Việt, dân Hoa Hạ
học lại !). Tuy vậy, ít người Việt để ý rằng Kinh Dịch chính là môn triết học
cổ đại đông phương về sự thay đổi . Phương Tây thì diễn đạt rõ ràng hơn, khi
chuyển ngữ sang Tiếng Anh, họ gọi Kinh Dịch là Book of Change-Kinh sách về
sự thay đổi. Luận ngữ 論語 thiên Thuật nhi 述而 ghi lời Khổng tử: Ngũ thập dĩ học Dịch, khả dĩ vô
đại quá hĩ 五十以學易,可以無大過矣
tạm dịch: Năm mươi tuổi học Kinh Dịch thì
có thể không lầm lỗi lớn. Nói theo ngôn ngữ bây giờ, đó là để không đánh
mất cơ hội phát triển, không bị sự thay
đổi tất yếu nhấn chìm. Đến những tư tưởng cũ kỹ của một xã hội phong kiến trì
trệ như vậy mà còn coi thay đổi là quy luật khách quan, thì trong một thế
giới hiện đại năng động ,KHCN phát triển
như vũ bão ,tất nhiên là phải đặt lên hàng đầu. Chẳng thế mà khẩu hiệu tranh cử
của Obama là ‘Change, Yes We Can” (Thay đổi, Chúng ta có thể làm đươc!”).Thay
đổi là khẩu hiệu, là lẽ đời , từ Đông sang Tây, từ Nam xuống bắc. Cái gì không cần
thiết, không hợp nữa, không có lợi ..thì cần thay đổi. Có thay đổi mới tồn tại
và phát triển đươc. Với lẽ đời như vậy , nếu lấy sự khẳng định và kiên trì làm cứu cánh
, đại loại như (trích dẫn: Hội nghi
TW 7 ngày 3-5-2013, Nguyễn Phú Trọng)
“.. kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc về bản chất của chế độ
chính trị và Nhà nước ta, tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng
Cộng sản VN lãnh đạo;..” (hết trích dẫn ), thì cuối cùng dân tộc này sẽ đi
đến đâu?
Với đời người con số 40 là đã qua hết giai đoạn “tam thập nhi lập三什而立 ” , đã lập thân xong, không còn phải
dựa vào danh vị hay tài sản của cha mẹ nữa và bước sang giai đoạn “tứ thập nhi
bất hoặc 四什而不惑 “ ,không (được) lầm lẫn nữa. Vậy mà đảng và nhà
nước VN sau 40 năm hết đánh nhau, tự nhận” được nhân dân giao phó”, nhưng lại thất
bại trong sứ mệnh phục hưng dân tộc (như đã nói ở trên), nay vẫn chỉ có cách
viện dẫn vào hào quang của tiền bối trước 1975 để giữ quyền cai trị đất nước, với
kiên trì và khẳng định thì có nhân dân nào lại
tin tưởng “giao phó” nữa. Liệu nhân dân với kinh nghiệm 4 thập kỷ “tin tưởng giao
phó” có còn lầm lẫn được không?. U50+ hãy trả lời !
Bốn thập kỷ cũng là con số thống kê trung bình về số phận
của các thể chế chuyên chế. Vì về bản chất, thể chế chuyên chế dựa vào áp đặt,
bạo lực , là mảnh đất để thù hận ,ân oán..nảy nở. Đó là một hệ thống cai trị chứa
đựng mâu thuẫn đối nghịch, địch ta ,cho nên sớm hay muộn, theo quy luật cũng bị
hủy hoại do tự thân hoặc ngoại lai. Khác với các thể chế dựa trên sự đồng thuận
có thể tự hoàn thiện để phát triển lâu dài, thể chế chuyên chế hùng mạnh như
Nhà nước Soviet cũng phải tan rã. Do có chiến tranh thế giơi II cắt đôi nên Liên
xô tồn tại ổn định được hơn 70 năm (1917-87). Thực ra nếu tính sau chiến tranh
đến khi bắt đầu sụp đổ (1945-1987) cũng chỉ 42 năm. Tất cả thể chế XHCN Đông Âu
cũng trên dưới 40 năm. Hàn quốc, Đài loan cũng không quá 40 năm, Gaddaphi-Lybia
42 năm, Franko-Tây ban nha cũng 41 năm. Các nhà độc tài khác (Mubarak, Suharto, Hitler..)cũng dưới 40 năm.
Trung quốc thành lập 1949 đến khi mâu thuẫn cực độ, Mao phải phát động Cách
mạng Văn hóa (1967-1978) để xóa đi làm lại. Cho nên người ta lấy mốc 1979 lúc
làm lại, để dự đoán sự thay đổi thực sự của Trung cộng sẽ xẩy ra từ 2019 trở đi
theo quy luật 40 tức 1979-2019.
Luận bàn về tuổi 40 không phải
chuyện tào lao, vô căn cứ. Theo khoa học về tổ chức xã hội, bốn thập kỷ là thời gian trung
bình chín muồi của ít nhất ba thế hệ hành động, là thời gian đủ cho các giá trị
đương thời theo quy luật là tách rời khỏi ảnh hưởng của giá trị ban đầu 40 năm
trước. Cho nên thay đổi là đương nhiên theo lẽ trời. Dân gian cũng có câu : “ai
giàu ba họ, ai khó ba đời”, chính là tổng kết kinh nghiệm của luận điểm khoa
học đó. Thực tế nhân loại đã chứng minh như vây, cho nên Việt nam cũng không mong
chống lại được quy luật đâu. Thay đổi lúc sắp vào tuổi 40 lúc này là tất yếu,
chỉ có điều là phải thông minh, khách quan để làm chủ sự thay đổi đó mà thôi.
Thay đổi : Cách mạng hay Cải biến
·
Cách mạng
(revolution) là một sự thay đổi nền tảng của một cấu trúc quyền lực hoặc tổ
chức , xảy ra trong một thời gian ngắn , thường kèm theo cưỡng chế bạo lực.
·
Cải biến
(evolution) là tên gọi mà môn xã hội học
mượn từ khoa học tự nhiên , vốn có nghĩa ban đầu là tiến hóa. Đó là một sự thay
đổi thích nghi dần từng bước, trong một thời gian dài.
·
Thoạt nhìn, ai cũng cho rằng cần phải thay đổi theo kiểu cách mạng mới cứu vãn được
tình hình VN hiện nay. Tuy nhiên những ý kiến chần chừ cũng không phải vô lý.
Vì VN từ 1858-1975 đã bị xâu xé nội bộ và ngoại xâm hơn 100 năm nên ai cũng sợ
bạo lực, sợ một cuôc đánh nhau tái diễn. Đến tận lúc này mà ân oán trong lòng
dân tộc vẫn chưa được hóa giải, nếu tiếp tục cách mạng dựng lên, lật xuống thì
ân ân, oán oán bao giờ mới dứt. Hơn nữa,vì vị thế địa chính trị , kinh tế, và đặc
điểm dân tộc, VN là miếng mồi không thể nhả của đại cường Trung hoa. Không cách
mạng cũng chết mà cách mạng cũng chết vào tay Trung hoa , nhanh hay chậm mà
thôi.
·
Với một thể chế chuyên chế toàn trị độc đảng ,
thì theo quy luật khoa học khả năng tự hoàn thiện là không thể. Hơn nữa thời
gian cũng không cho phép chờ đợi. Điều đó có nghĩa là giải pháp evolution-cải biến chắc chắn không mang
lại hiệu quả. Thâm chí, như quá trình “”đổi mới” đã chứng tỏ , chỉ mở cửa kinh
tế ít nhiều để thích nghi và giữ nguyên chuyên chế toàn trị thì mặt trái của
kinh tế thị trường ập vào , được cơ chế chuyên chế bảo kê , ngôn luận bị bóp
nget, nên tham nhũng lớn mạnh vì không có địch thủ tự nhiên nữa. Xã hội tan
nát, chính quyền tan rã, văn hóa giáo dục lao dốc.Thật là một thảm họa. Và tử
thần phương bắc chỉ còn chờ để rỉa xác nữa mà thôi.
·
Thành công vĩ đại nhất của loài người hiện nay
chính là sự phát triển vượt bậc của Khoa học-Công nghệ (KHCN). Khoa Chính trị
học có thể học ở KHCN một nguyên tắc thay đổi , gọi là revolutionary evolution – Cải biến mang tính cách mạng , đã làm
thay đổi toàn diện KHCN ngày nay. Đó là nhìn hệ thống chính tri-xã hội như một
hệ phức hợp đa thành phần (multi-component complex system). Trước hết là phân
tích vị trí và tác động từng thành phần trong tổng thể. Thay đổi từng thành
phần bằng phương thức cách mạng nhưng theo lập trình định sẵn ,sao cho có tác động
lớn nhất lên toàn hệ thống , nhưng lại gây tổn thương ít nhất cho các thành
phần khác và không làm đổ vỡ tổng thể. Tóm lại một câu: Phương thức cải biến có
tính cách mạng là cuộc cách mạng từng thành phần theo lập trình để tạo nên sự cách
mạng tự thân ổn định, không bạo lực trên tổng thể.
Đoán một quẻ Dịch cho Việt nam: Cải biến mang tính cách mạng
1.
Đã đến thời điểm thể chế không thay đổi
không được. Kiên trì giữ nguyên thì kinh tế lạc hậu, tham quan lộng hành, lòng
dân không yên , trong lúc giặc phương Bắc nhòm ngó .“ 胡元澄: 臣不怕戰,但怕民心之從違耳Hồ Nguyên Trừng :Thần không
ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”( cảnh báo trước khi mất nước, 1405,
đời nhà Hồ,) . Đến lúc đó thì đảng cũng mất , dân tộc cũng diệt vong vì Trung hoa
ngày nay đã chờ cơ hội đồng hóa nhóm dân Bách Việt cuối cùng là Việt nam quá
lâu rồi.
2.
Trong giới cầm quyền và liên quan, đa số cũng hiểu biết,
cũng ít nhiều có lòng với dân với nước , nhưng do sợ liên lụy sai lầm quá khứ,
sợ bị trả thù , sợ mất quyền lợi
3.
Xã hội Viêt nam hơn 120 năm, từ 1858 đến 1975/85,
liên miên chiến tranh , đảo lộn. Tính cách hằn thù thiển cận của người Việt và
kinh nghiệm đã qua tạo ra nỗi sợ hãi cho nhiều người dân về ân oán vay trả ,
nếu có một sự đảo lộn, đấu đá bạo lực nữa.
4.
Sự kiện 1975 đúng ra phải là mang lại bình yên
nhưng sai lầm liên miên những năm sau đó đã chia rẽ dân tộc: Chia rẽ giữa kẻ
thắng người thua. Chia rẽ giữa kẻ thắng với kẻ thắng, người thua với người
thua. Đến nay dân tộc vẫn không nhìn về một hướng.
Cuộc cải biến có tính cách mạng
phải lập trình sao cho giải quyết triệt để, yên ổn bốn yếu tố đó, theo thứ tự
từ dưới lên trên thì sẽ cải biến cách mạng được hệ thống tổng thể .
Luận giải quẻ Dịch cho VN trên cơ
sở khoa học thì thấy có thể hóa giải nếu biết những việc chắc chắn sẽ xẩy ra, chủ
động thì hay, thụ động thì dở, sớm thì tốt, chậm thì xấu:
a)
Hành động pháp lý để Chấn hưng Dân tộc :Ngay lập tức
, với danh nghĩa toàn dân hãy xây dựng một “ Hiến chương Chấn hưng Đất nước”,
thông qua Trưng cầu Dân ý (Referendum) hoặc Hội nghị Diên hồng. Nội dung ngắn
gọn có ba nguyên lý. Một là chọn các tiên đề xã hội trong Tuyên ngôn Độc
lập Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền Pháp thể hiện tại Tuyên ngôn Độc
lập 1945 VN làm cơ sở xây dựng nhà nước Việt nam. Hai là kể từ ngày ra
Hiến chương này, tất cả những gì xẩy ra trước đó là thuộc về lịch sử, không
được hồi tố, trừ tội phạm hình sự. Ba là Hiến chương này không được thay
đổi, chỉ được bổ sung những điều không trái với những điều đã ghi lần đầu. Hiến
chương này thông qua thì các yếu tố 2,3,4 đã được giải quyết về pháp lý.
b)
Động tác vì hòa hợp và tôn trọng xã hội :
Cũng nên nhắc chuyện Liên xô , sau khi sụp đổ , Leningrad dù đã có lịch sử hơn
70 năm oai hùng, cũng đã trở về tên lịch sử là St. Peterburg. Cho nên , bây giờ
VN nên theo đạo đời ,trả lại tên cho Sài gòn. Thay vào đó là mở rộng thành Vinh
thành ra một thành phố độc lập, bao gồm cả 4 huyện Nghi xuân, Nghi Lộc, Hưng
nguyên, Nam đàn và đổi tên thành TP Hồ chí Minh , quê hương của Hồ chí Minh. Sài
gòn nên góp tay cùng dân Nghệ Tĩnh xây dựng một TP HCM bền vững và hợp lòng
người hơn. Tỉnh Nghệ An như vậy cũng thu gọn lại hợp lý hơn và nên chuyển thủ
phủ ra Cầu Giát. Chuyện này trước sau gì cũng xẩy ra. Biết trước mà chủ động
thực hiện bao giờ cũng có lợi hơn cho dân tộc.
c)
Việc làm theo đạo lý tâm linh: Nhìn
vào lịch sử cổ kim, tất cả các nền văn minh nào có tục tôn thờ xác ướp, như Ai
câp, Inca, Liên xô… cũng đều biến mất dạng trong lịch sử. Việt nam không có tục
lệ đó nay nên cần tránh xa. Du nhập một phong tục thờ người quá cố trái với
truyền thống ,trái với ý nguyện người đã
khuất là phạm vào điều cấm kỵ của tâm linh. Vì vậy nên tôn trọng ý nguyện của
Hồ chi Minh để an táng thi hài như di chúc. Làm đúng nguyện vọng người đã khuất
là tôn trọng “nghĩa tử là nghĩa tận” để vong linh người đã khuất được siêu
thoát tạo phúc lành, giúp chấn hưng dân tộc.
d)
Thể hiện trách nhiệm đồng hành cùng dân tộc:
Đảng CS VN đã từng có những thành tích được lịch sử ghi nhận. Cái gì thuộc về
lịch sử thì nên lưu giữ cho lịch sử ,đừng để hậu thế làm sứt mẻ. Hiện nay, như
bất kỳ tổ chức lớn nào, ba triệu đảng viên ĐCSVN có nhiều khuynh hướng khác
nhau, và tất là có mâu thuẫn phát sinh. Nếu không lường trước để giải quyết thì
có thể sẽ lặp lại những sự kiện lịch sử đã xẩy ra năm 1956 ở Hungaria và 1968 ở
Tiệp khắc. Vin vào yêu cầu “ngầm” của một nhóm lãnh đạo ĐCS, Liên xô đã đưa
quân vào Budapest, Praha bắt các lãnh tụ cải cách ,áp đặt sự thống trị chuyên
chế. Nếu một việc tương tự như vậy xẩy ra với VN thì quân TQ sẽ lập tức khống
chế toàn bộ VN , dân tộc VN sẽ bị đồng hóa do bản chất của Đại Hán là như vậy,
không phải như Liên xô đối với Hungaria, Tiệp khắc đâu. Vì vây, ĐCS cần tự nguyện
tách thành 2 Đảng, cùng với mục tiêu chấn hưng dân tộc, nhưng chỉ khác nhau về
phương thức, để các đảng viên tự nguyện chọn lựa thuộc nhóm nào. Sự chọn lựa tự
nguyện vừa giải quyết được mâu thuẫn,ngăn chặn sự xâm lăng của TQ, tránh trở
thành tội đồ của dân tộc, vừa hợp đạo lý phát triển văn minh. Vả lại việc chia
tách này cũng đã có tiền lệ tốt đẹp là phong trào CS quốc tế tách thành Quốc tế
CS đệ nhị và đệ tam. Hệ thống các đảng và
nhà nước xã hội dân chủ châu Âu hiện nay là di sản quý báu của sự chia tách đó.
e)
Hoàn thiện nền tảng chấn hưng đất nước:
Đến lúc 4 điểm a,b,c,d hoàn thành thì bước vào bầu cử quốc hội lập hiến, chỉ có
nhiệm vụ soạn thảo hiến pháp mới, sau khi quốc dân thông qua thì giải tán và
bầu cử quốc hội lập pháp. Mọi chuyện đang tranh cãi như tên nước,quốc kỳ ,
chính phủ, tòa án, đảng phái, quân đội, công an …chỉ còn là chuyện của kỹ thuật
lập hiến , lập pháp, dễ dàng giải quyết trên nguyên tắc đồng thuận ,dân chủ.
Năm việc làm trên đây đều thuận lẽ trời, hợp đạo đời, không khó thực
hiện trên thực tế, chỉ khó thực hiện trong đầu óc của lớp U50+ . Vì mong để lại
phúc cho con cháu chúng ta , hãy gạt bỏ mọi toan tính , hằn thù ,vay trả mà
thay đổi !
Trần Gia Ninh, 5/2013
(Boxitevn )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét